HISHAM BUSTANI
Nhà văn Hisham Bustani
Hisham Bustani sinh tại Amman, Jordan, đã xuất bản 4 tập truyện ngắn. Nổi tiếng về các chủ đề đương đại, phong cách, và ngôn ngữ, ông được cho là “đưa một làn sóng mới của chủ nghĩa siêu thực vào văn học Ả Rập, vốn đã lỡ mất phong trào siêu thực từ thế kỷ trước”. Tác phẩm của Bustani đã được dịch sang năm thứ tiếng, với các bản dịch Anh ngữ xuất hiện trong những tạp chí danh tiếng khắp Hoa Kỳ, Anh, và Canada. Ông được tạp chí The Culture Tríp, là tạp chí xuất bản qua mạng internet tại Vương quốc Liên hiệp Anh vinh danh là một trong sáu nhà văn đương đại hàng đầu ở Jordan. Tập truyện thứ ba của ông, The Perception of Meaning - Nhận thức về Ý nghĩa, được giải thưởng University of Arkansas Arabic Translation. |
Một chút sau nửa đêm
Một điếu thuốc đã tắt được kẹp hờ giữa hai ngón tay tôi. Tôi không biết ai đã đặt nó vào đó, nhưng tôi cảm thấy những con sâu cựa quậy bên trong nó. Khi nhìn chúng tôi nghĩ là tôi đã thấy chúng trước đây, mười cơ thể nhỏ bé - giống hệt nhau, không có đặc điểm gì.
Điếu thuốc lá là một con sâu lớn đang ăn và ợ ra những con sâu nhỏ hơn bên trong nó. Chúng trôi tuột vào miệng tôi, lấp đầy phổi tôi, và sau một bữa tiệc ồn ào ngắn ngủi ở đó, chúng bắt đầu lưu chuyển theo dòng máu của tôi.
Tôi không biết tại sao tôi cảm thấy buộc phải nhảy xuống từ cửa sổ tầng ba. Tôi không biết thân cây ngáng đường tôi rơi xuống từ đâu ra. Và tôi không biết điều gì làm người hàng xóm của tôi lại ra ngoài để phơi quần áo vào lúc tôi rơi. Tôi không biết tại sao tôi tưởng tượng rằng tôi chết khi tôi đổ ập xuống mặt đất. Tôi hạnh phúc ngay lúc đổ ập đó; tôi nhắm chặt mắt và trôi vào một cõi dễ chịu như một giấc ngủ ngon.
Chỉ mất chút ít thời gian cho tới khi tôi nghe tiếng người hàng xóm hét lên và nhận ra có điều gì đó không đúng. Tôi thật sự đã không chết; tôi vẫn còn nghe tiếng còi xe qua lại trên đường.
Khi tôi đứng lên phủi bụi đất bám trên quần áo, đám đông vây quanh tôi giật mình lùi lại. Có lẽ tôi làm họ sợ. Tôi nghe một người trong số họ nói với một người khác, với giọng nói sợ hãi: “Có những con sâu bò ra từ mũi của anh ta.”
“Chúng không bò ra,” tôi sửa lại: “chúng đang tràn ra.” Tôi bỏ đám người lại ở đó và đi lên căn hộ của tôi.
*
“Mày là đồ đáng ghét.”
Đó là câu hắn nói, cái thằng người đang đứng trong tấm gương đó.
Anh muốn hắn hét lên. Anh muốn hắn vả vào mặt anh. Anh muốn hắn nhổ vào mặt anh. Nhưng “mày là đồ đáng ghét” là tất cả những gì anh có được từ hắn, lúc này đang đứng cứng ngắc, nhìn anh với bộ mặt đông cứng.
Vào lúc anh quyết định đánh hắn để rồi anh sẽ nói một điều gì, thì gã đàn ông trong gương đã không còn nữa. Và khi anh rút nắm đấm về, nắm tay bắt đầu tràn ra những con sâu, anh trực diện với mười cái đầu nhỏ giống hệt nhau.
“Mày là đồ đáng ghét,” tất cả chúng nói, và bắt đầu nhìn anh với những bộ mặt đông cứng.
*
Và anh cứ gặp những cơn ác mộng. Một mảnh vụn - mỗi lần là một trong những mảnh vụn của gương mặt bị đập rạn vỡ đó.
Một mảnh trán. Một phần con mắt. Một bên cằm. Một phía mũi.
Sau đó anh sẽ hoảng sợ tỉnh dậy. Anh cố ghi lại hình ảnh của mảnh vụn đó lên vải toan, để ghép nó với hình ảnh của những mảnh vụn trước đó. Hy vọng anh có thể lắp ráp được một bức tranh về con người anh đã từng thấy trong gương. Nhưng tay anh dừng - tự nó dừng - khi mới xong được nửa chừng; bức tranh cứ tồn tại theo cách đó, thiếu mất nửa kia.
Anh bắt đầu cố gắng không thức dậy từ những cơn ác mộng nữa - tưởng tượng! Anh sẽ tự nhủ: Chưa được, hãy kiên nhẫn, đừng mở mắt ra, có thể còn nhiều mảnh nữa sẽ cùng đến. Anh vặn bàn tay đang cố bóp cổ anh, anh bấm móng tay vào những bức tường của cái hố anh đang rơi vào. Hy vọng trạng thái kinh hoàng này kéo dài đủ lâu để gương mặt sẽ trở nên trọn vẹn… nhưng…
Nhưng mỗi lần anh thức dậy thì những mảnh rời rạc cần phải lắp ráp đã không cùng đến, vậy là anh thức dậy - ướt sũng mồ hôi - để chép những phần còn giữ được trong ký ức lên vải toan.
*
Tôi thức dậy và đi trong xưởng vẽ của mình. Tôi thấy những bức tranh chưa vẽ xong của tôi đã hoàn tất; những gương mặt của chúng đang nói với tôi. Tôi nhìn những khung vải toan trống trơn của tôi tự tô phết màu cho chúng và khệnh khạng đi quanh. Trên đi văng, tôi thấy Monica Bellucci(1). Tôi ngồi sát bên nàng, vò tóc nàng, và âu yếm nàng mãnh liệt.
Có tiếng ồn ào bên ngoài. Tôi đi ra, thẳng tới cao ốc đối diện với cao ốc tôi ở: Trên mái tòa cao ốc, một số thiếu niên vừa qua xong kỳ thi đang tổ chức một buổi tiệc. Tiếp theo đó ông sĩ quan quân đội về hưu sống gần đó ngắt cầu chì điện, và chúng say xỉn dò dẫm xuống cầu thang từng đứa một. Sự phản đối của những người hàng xóm tức tối đã hết, tôi quay lại căn hộ của mình, phấn chấn với tiếng nhạc đã biến thành im lặng.
Những khung toan của tôi lại không có màu sắc gì nữa. Về nàng Monica Bellucci, nàng là một bức ảnh in trên bìa của một tờ tạp chí nằm trên bàn. Có một người khác ngồi trên đi văng thay vì nàng: chứng mất ngủ.
*
![]() |
Minh họa: ĐẶNG MẬU TỰU |
Khi anh mở mắt vào buổi sáng, bức tường không còn ở chỗ của nó. Thay vì bức tường, lại là một vùng sáng lan tỏa từ một nguồn sáng ở xa - nhạt, lạnh, mờ đục. Thoạt tiên anh nghi ngờ chính mình và nhìn kỹ hơn, nhưng không có gì thay đổi. Anh lấy cặp kính lên - cặp mắt kính luôn để trên chiếc bàn bên cạnh giường và đeo vào - nhưng cũng không có gì thay đổi. Anh ngoái đầu nhìn những bức tường kia và không nhìn thấy chúng. Anh cảm thấy một nỗi sợ hãi làm anh chết điếng trong giường vài phút, rồi anh quyết định chui ra khỏi tấm mền để xem xét.
Có lẽ mình nên bật đèn lên để nhìn thấy rõ hơn. Nhưng công tắc đèn thì ở trên tường, mà tường thì không còn ở nơi nó phải ở nữa.
Mình sẽ hít chút ít không khí trong lành để tỉnh táo. Nhưng cửa sổ thì ở trên tường, mà tường thì không còn ở nơi nó phải ở nữa.
Một tách cà phê sẽ giúp mình tập trung hơn. Nhưng để vào nhà bếp thì phải đi qua khung cửa nhà bếp, và cửa thì ở trên tường, và bức tường - như đã biết - không còn ở nơi nó phải ở nữa.
Về phần tấm gương rạn nứt, nó lơ lửng ở chỗ cũ, như thể đang bềnh bồng. Nhìn ra từ những mảnh rạn của nó là mười cái đầu nhỏ giống hệt nhau, nhìn anh với những khuôn mặt đông cứng.
*
Bất chấp những nỗ lực liên tục của tôi, bất chấp sự kiên trì bơi vượt những gì tôi tưởng tượng để trồi lên, tôi không tìm thấy mặt nước. Tôi không cảm thấy ngạt thở như tôi chờ đợi; cứ như thể phổi tôi đã đột ngột chuyển thành mang cá. Như thể tôi đã trở thành một con cá.
Trong trạng thái lạ lùng đó, tôi bắt đầu bơi và thấy bềnh bồng trên đường bơi của tôi nhiều thứ tôi đã mất trước đây. Tôi gặp những người tình đã bỏ tôi; tôi gặp mẹ tôi, người đã chết khi sinh tôi; tôi gặp những họa sĩ thường hay nói xấu tôi; tôi gặp Nietzsche(2), hai tay ôm đầu, đôi lông mày nhúc nhích như một anh hề.
Khi tôi bơi mệt, tôi cuộn mình lại như một bào thai, và rồi…
Rồi tôi nghe tiếng hét của người hàng xóm, tiếng còi xe, và cảm thấy một đám đông người tụ tập quanh tôi.
*
Anh bắt đầu cảm thấy một sức ép mãnh liệt. Chất lỏng ép lên anh từ mọi hướng, cho tới khi một sự co thắt đột ngột giải phóng sức ép, và anh tự mình cảm thấy đang rơi nhanh. Anh bị lôi bằng chân và treo lửng lơ trong không khí, rồi đến một cú đấm đau đớn vào lưng - thế là anh hít lấy hơi thở đầu tiên và hét lên. Khi anh mở mắt ra lần đầu tiên, những bức tường đã hiện diện trở lại ở chỗ của chúng, nhưng không có những công tắc đèn, không có cửa lớn, không cửa sổ. Chúng chỉ được trang trí bằng một tấm gương rạn vỡ nhiều mảnh, và từ những mảnh rạn mười khuôn mặt giống hệt nhau nhìn anh với vẻ mặt đông cứng.
*
Lần thứ hai, anh cảm thấy bóng đèn điện tròn treo từ trần đập vào mũi anh.
Lần thứ ba, anh nghe tiếng chó sủa. Lần thứ tư, anh thấy cái giường của anh lật ngược và, từ trên giường, anh nhìn nền nhà phía dưới. “Mình đã không hút bụi khá lâu rồi,” anh nói, khi thấy bụi đất lớp lớp ở chỗ để cái giường.
Lần thứ năm, một con công đi ngang qua, nhìn anh, xòe đuôi, rồi khép đuôi và tiếp tục đi.
Lần thứ sáu, một thành phố xa xăm đang cháy ở chân trời.
Khi anh nhắm mắt lại lần thứ bảy rồi mở mắt ra, anh thấy một điếu thuốc lá kẹp hờ giữa hai ngón tay và cảm thấy những con sâu di chuyển bên trong điếu thuốc. Bất chợt, anh quyết định đốt thuốc, và sau khi hút vài hơi - do thói quen chứ không vì gì cả - anh đi lại cửa sổ và nhảy.
Vào lúc đó, một mảnh rạn của tấm gương mà anh đã đấm trước đó nứt thành hai phần, và một gương mặt khác xuất hiện.
Võ Hoàng Minh dịch
(Từ “A few moments after midnight”)
Nguồn: http://lithub.com/a-few-moments-after-midnight/
(TCSH384/02-2021)
--------------------
(1) Monica Bellucci: sinh năm 1964, là nữ diễn viên và người mẫu Ý. Bellucci bắt đầu sự nghiệp của nàng với nghề người mẫu rồi chuyển sang đóng phim. (Chú thích của người dịch).
(2) Friedrich Wilhelm Nietzsche, triết gia người Đức, 1844 - 1900. (Chú thích của người dịch).
LGT: R. Grossmith sinh năm 1954 ở Dagenham thuộc London, nhận bằng tiến sĩ với luận án về Nghệ thuật tiểu thuyết của Vladimir Nabokov và hiện sống ở Glasgow, nơi ông làm việc biên soạn tự điển.
L.T.S: Nikom Rayawa là nhà văn trẻ sinh ở một làng phía Bắc thủ đô Băng Cốc. Nikom Rayawa thuộc phái văn học "Trăng lưỡi liềm" có xu hướng nhân bản và tự do.
Lỗ Tấn là nhà văn hiện đại Trung Quốc rất đỗi quen thuộc với bạn đọc Việt Nam. Ông quê ở Thiệu Hưng, Triết Giang, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881, mất ngày 19 tháng 10 năm 1936. Năm nay là năm kỉ niệm 130 năm ngày sinh và 75 năm ngày mất của ông.
William Butler Yeats (1865 - 1939) là nhà thơ và kịch tác gia lớn của Ailen, sinh ở Dublin. Cùng với T.Eliot, Yeats đã cách tân nền thơ Anh và Ailen. Được giải thưởng Nôbel năm 1923. Sáng lập Hội Văn học Ailen và Nhà hát Quốc gia Ailen.
LGT: O. Henry là bút danh của William Sydney Porter. Ông sinh năm 1862 và mất năm 1910, cùng năm qua đời của Mark Twain.
LGT: James Ross là nhà văn đương đại của Anh. Ông là một trong số những thành viên của trường phái Không Tưởng. James sống trong một căn nhà cũ, viết bên một chiếc bàn cũ bằng một chiếc máy tính xách tay giá rẻ, theo như lời ông nói. James Ross bắt đầu cầm bút từ năm 1996, cho đến nay đã viết hàng loạt truyện ngắn mang phong cách riêng, đậm chất huyền ảo và giả tưởng.
Mia Couto sinh ngày 5 tháng 7.1955 tại Beira, Mozambique. Ông là nhà văn Mozambique nổi tiếng. Các tác phẩm của ông viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, đã được dịch rộng rãi ra nhiều thứ tiếng và được in ở trên 22 quốc gia. Truyện ngắn dưới đây được David Brookshaw dịch từ tiếng Bồ Đào Nha sang tiếng Anh. Bản tiếng Việt theo David Brookshaw.
LGT: Ngày nay, khi văn học dần rời xa đại tự sự mà thay vào đó là sự lên ngôi của tiểu tự sự thì truyện cực ngắn là một trong những thể loại được người sáng tạo và người đồng sáng tạo quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay thì dường như vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất cho cái gọi là “truyện cực ngắn”. Truyện cực ngắn còn được biết đến dưới nhiều dạng thức định danh như “truyện chớp” (flash fiction), “truyện bất ngờ” (sudden fiction), “vi truyện” (micro fiction)...
L.T.S: Kurt Kusenberg (1904-1983), sinh ở Göteborg, Thụy Điển, mất tại Đức. Giám đốc văn học suốt ba mươi năm tại một nhà xuất bản trong nước và chủ biên một loại sách viết riêng về các triết gia, bác học và nhà văn. Tác giả của nhiều truyện kể mang màu sắc kỳ dị.
L.T.S: Miguel Rojas Mix, sinh năm 1934 tại thủ đô Chi-lê. Giám đốc viện Nghệ thuật châu Mỹ La tinh thủ đô San Chiago. Bỏ Chi lê sang Pháp dạy học ở Đại học Paris VIII. Viết tiểu luận, truyện ngắn, sách thiếu nhi. “Bàn tay Chúa” là truyện ngắn ác liệt tố giác chính quyền Pi-nô-chê khát máu tại Chi-lê chỉ có thể gây ra khổ đau, chết chóc, ly hương và quật khởi cho nhân dân xứ này. Truyện mang ý hướng ngụ ngôn, gợi ý, gợi hình, vừa có nét thần kỳ mà vẫn không xa hiện thực.
LTS: Valentin Rasputin sinh năm 1937 tại một ngôi làng ở Siberia, Ust-Uda. Tốt nghiệp xong đại học Irkutsk, ông làm việc cho các tờ báo ở Irkutsk và ở Krasnoyarsk trong nhiều năm. Truyện ngắn đầu tiên của ông xuất hiện năm 1961. Truyện “Tiền bạc cho Ma-ria” đem lại danh tiếng cho ông. Với những truyện xuất hiện sau đó như “Kỳ hạn cuối cùng”, “Hãy sống và nhớ đến tôi”, “Vĩnh biệt Ma-chi-ô-ra”, ông được khẳng định như một trong những nhà văn Xô-viết lớn nhất. Truyện ngắn dưới đây xuất hiện trong một tập truyện mới của ông, tập truyện có đề là “Cuộc sống và tình yêu”.
LGT: Hồ Thích là nhà văn, học giả lớn của Trung Quốc. Truyện cực ngắn này đã rạch đôi hai nền văn minh với hai lối sống, hai cách tư duy. Với nền văn minh nông nghiệp, xã hội tiểu nông, mọi thứ chỉ cần tương đối. Đem lối sống, cách tư duy ấy sang nền văn minh đại công nghiệp thì trật khớp hết, và… chết.
PHRÊ-ĐRÍCH SI-LAN-ĐE- Tất cả đứng dậy, - viên mõ tòa nói với giọng đều đều.Ông chánh án bước vào, kéo ghế lại gần rồi ngồi xuống.- Tất cả ngồi xuống, - viên mõ tòa làm xong phận sự, chẳng còn buồn để ý đến những gì diễn ra trước mắt.
A-ri-en Đot-phơ-man sinh năm 1942 tại Chi-lê. Giáo sư dạy thuyết giảng tại Đại học Văn thuộc Viện Đại học Chi-lê, ông phải rời bỏ Chi-lê vào năm 1973, viết truyện ngắn, tiểu luận và thơ.Truyện ngắn Viên thuốc bọc đường viết theo kỹ thuật chen lồng đối thoại và chen lồng hiện tại và tương lai.Nội dung truyện vạch trần sự vật lộn miếng ăn tại Hoa Kỳ khiến cho lắm kẻ tha phương lao vào một số nghề nghiệp nguy hiểm, khốn nạn.
An-ghiêc-đax Pô-xi-ux, sinh năm 1930, tại làng Ketubai - ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Litva ở Học viện Giáo dục Klaipeda - Ông viết văn vào năm 1953, tác giả của nhiều truyện ký, đồng thời ông còn là nhà văn viết nhiều cho tuổi thơ.
VLA-ĐI-MIA XÔ-LÔ-KHINThị trấn nhỏ giữa buổi trưa hè bụi bậm, buồn tanh, vắng ngắt. Chẳng biết tự bao giờ, giữa thị trấn đã sừng sững một tòa đại giáo đường năm tháp nhọn. Nổi lên giữa những mái nhà một tầng có vườn cây xanh rì bao quanh trải đều lúp xúp hai bên bờ sông là gần chục nhà thờ, mà tháp của chúng cái thì màu da trời, cái thì màu lục, cái thì màu vàng.
Marie Luise Kaschnitz (1901-1974) là một nữ văn sĩ nổi tiếng và tiến bộ của Tây Đức, sinh trưởng ở Cac-lơ Xru-e (Karlsruhe) trong một gia đình sĩ quan. Bắt đầu hoạt động với tư cách cây bút văn xuôi từ những năm 20.
K. PAU-TỐP-XKISố phận một nguyên soái của Na-pô-lê-ông - mà chúng ta sẽ không gọi tên để khỏi làm phiền lòng những nhà sử học và những kẻ mọt sách - xứng đáng để đem kể cho các bạn, những người đang phàn nàn về sự nghèo nàn của tình cảm con người.
LTS: Vassily Shukshin (1929-1974), một diễn viên tài hoa, một đạo diễn phim lỗi lạc, một nhà văn tên tuổi. Thật khó nói lãnh vực nghệ thuật nào đã quyết định quá trình hình thành tài năng của Shukshin: truyện ngắn, tiểu thuyết hay điện ảnh? Nhưng dẫu sao vẫn không cần bàn cãi gì nữa về giá trị truyện ngắn của Shukshin. Xin giới thiệu một trong những truyện ngắn viết vào những năm cuối đời của nhà văn.
LGT: Irving Stone (1903-1989), nhà văn Mỹ hiện đại, nổi tiếng trong nước và trên thế giới nhờ những kịch bản phim lịch sử, những tác phẩm về tiểu sử các nhân vật nổi tiếng, nhất là những cuốn “Khát vọng cuộc sống” (Lust for Life) viết năm 1934, về Vincent van Gogh, danh hoạ Hà Lan, “Tê tái và Đê mê” (The Agony and the Ecstasy) viết năm 1961, về Michelangelo, danh hoạ và nghệ sĩ điêu khắc Italy, “Thuỷ thủ trên lưng ngựa” (Sailor on Horseback) về Jack London, nhà văn Mỹ lừng danh...).