Một chiều thu Huế dưới trời Tây

09:07 02/06/2009
VÕ QUANG YẾNỞ Pháp ngưòi ta thường bảo một con chim én không đủ để báo mùa xuân. Tôi thì tin một nữ sĩ có thể chiếu sáng một chiều thu lá vàng mưa bay nhưng không phải bất cứ ai cũng có thể là nữ sĩ ấy. Chị là thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, ái nữ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị.

GSTS Trần Văn Khê phụ họa đàn tranh cho nghệ sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương

Tháng 10 năm nay 2002, chị được mời cùng với nhà hát tuồng Đào Tấn qua Munchen diễn vở Đông Lộ Địch của thân phụ chị, do GS.TS Thái Kim Lan tổ chức trong chương trình Trung tâm Giao lưu Văn hoá Đức Á Châu. Sau khi xong công việc, chị ghé qua Pháp thăm bà con, bạn bè. Đây cũng là một mong ước của chị từ lâu và cũng là một cái may cho đồng bào hâm mộ thơ nhạc ở Kinh Thành ánh sáng, đặc biệt những ai đã từng rung cảm với câu thơ điệu hò xứ Huế, nhưng biết bao người đang mong chờ, làm sao thoả mãn được tất cả. Vì vậy ý kiến của các bạn tổ chức một buổi họp chung là hợp lý nhất. Chỗ họp được chọn cũng rất hợp với tinh thần nêu ra của những người mời và của vị khách quý: Phật Đường Khuông Việt ở Orsay.

Orsay không phải là nơi xa lạ đối với đồng bào ta ở vùng Paris. Cách xa phía nam kinh đô khoảng chừng 20 km, thành phố xinh xắn nầy nằm ép mình trên bờ sông nhỏ Yvette, ngay giữa thung lũng Chevreuse. Sinh viên Việt ở đây khá đông nhất là những năm trường Đại học Orsay kết nghĩa với hai trường Đại học TP Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Năm 1994, thị xã tổ chức cả một tuần lễ Việt Nam với sự tham dự của Giáo sư Trần Văn Khê, một cuộc triển lãm tranh hai họa sĩ trẻ Sơn Lâm và Vũ Hoà, những đêm nhạc với ban Phượng ca Dân ca Quốc nhạc và nghệ sĩ Trương Thị Quỳnh Hạnh, vở kịch Việt Nam của tôi của Maryn Hache, bàn tròn về huyền thoại do Vincent Ton Van và Sean James Rose điều khiển, về kinh tế qua lời trình bày của chị Ngô Thị Cúc, bên cạnh những cuộc biểu diễn Việt Võ Đạo, Thái Cực Quyền, nhóm dân tộc Thần Phong, múa lân, ăn cơm Việt, kể chuyện cổ tích... Vài năm qua, với sự góp sức của Hội Phật tử Âu Châu, một cái nhà nhỏ ở xóm Le Guichet được sắp đặt trang bị thành một ngôi chùa. Hai tu sĩ ở Huế qua đã khéo tay sửa sang, biến hoá cái nhà ở kia thành một Phật đường xinh xắn, có hoa me đất vườn trước, có dàn bầu sai trái phía sau, điểm thêm nét quê hương nơi đất khách nầy. Chính ở nơi đây, hôm chủ nhật mồng 3 tháng 11, mà chị Hỷ Khương được mời tiếp xúc bà con bạn bè, có kẻ chỉ biết tên, biết tiếng, có người thân thích từ những chục năm trước.

Chị Hỷ Khương không lại một mình. Anh Trần Văn Khê đang công tác ở Việt Nam cũng chịu khó về cùng dự mặc dầu mỗi chuyến bay là một nỗi mệt cho người lớn tuổi như anh. Anh đem theo một cây đàn tranh do nhạc sĩ Vĩnh Bảo đặc biệt đóng cho anh với gỗ cây ngô đồng mua từ Nhật về. Cây đàn to hơn đàn thường thấy, tiếng đàn cũng trầm hơn, có điều nặng quá cũng khó mang theo! Anh Khê nhấn mạnh ngay buổi ca nhạc hôm nay là dành cho khách là Hỷ Khương, anh chỉ phụ đàn thôi. Nhưng chị Hỷ Khương thì không nghĩ có thể ngâm thơ hay hò Huế mà không có tiếng đàn đệm của Trần huynh. Thật vậy, sau nầy ai cũng nhận thấy tiếng đàn tranh rất phù hợp với giọng ngâm thơ hay hò Huế của chị. Dù sao, một điều rất rõ là không có chương trình định trước, thính đơn sẽ được ứng biến tuỳ theo cảm hứng của nghệ sĩ và gợi ý của thính giả.

Buổi ca nhạc bắt đầu vào lúc 14 giờ 45, chỉ chậm 15 phút sau giờ chỉ định. Sau vài lời mở đầu của thầy Tịnh Quang, anh Khê giới thiệu chị Hỷ Khương và luôn tiện trình bày vở Đông Lộ Địch. Để giúp thính giả thưởng thức, anh giải thích những cách sử dụng thơ Việt Nam, từ đọc, ngâm, ru, hò qua các lối hát, hát chèo, hát bội, hát quan họ, hát cải lương... Rồi anh nhường lời cho chị Hỷ Khương. Là một người con hiếu thảo, chị bắt đầu với các tác phẩm của thân phụ. Vì là ở chùa, chị chọn những bài Phật giáo. Trước khi ngâm, chị đọc luôn ba bài thơ của cụ Ưng Bình: Đọc báo Viên Âm, Khuyên học Phật và bài thơ tuyệt bút là bài thơ cuối cùng của đời cụ: Tiếng chuông lòng
            ...Tôi cũng như ai phường đạo hữu,
            Mong vào cửa Phật đến Tây Phương.

Tiếng vỗ tay sau mỗi bài ngâm vang dội trong thính phòng dần dần chật kín. Mấy thầy đếm đâu cũng có khoảng 80 người, một số thính giả có thể cho là lớn trong loại gặp gỡ này. Tiếp theo, chị đọc một bài của chị nhân kỷ niệm 115 năm ngày sinh của cụ Ưng Bình, khi đọc đến hai câu:
            Lời xưa di huấn thời son trẻ,
            Con vẫn mang theo suốt cuộc đời.

Chị thổn thức xúc động, hai mắt rướm lệ. Anh Khê đặt nhẹ tay lên vai chị. Dần dần trấn tĩnh, chị tiếp tục đọc hết bài thơ, ngâm rồi bắt qua một điệu hò như anh Khê đã giải thích. Chị tiếp tục trình bày câu hò có tiếng nhất của cụ Ưng Bình đã biến thành câu hò dân gian:
            Chiều chiều trước bến Văn Lâu,
            Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,
            Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông,
            Thuyền ai thấp thoáng bên sông,
            Đưa câu mái đẩy, chạnh lòng nước non.

Trước giờ nói chuyện, anh Khê đã có giải thích cho nhà tôi và tôi về những khó khăn khi muốn dịch chữ ai trong câu hò ra Anh ngữ. Tôi đã có đọc bài này của anh đăng trong cuốn sách hồi ức về cha tôi mới tái bản và bổ sung mà chị Hỷ Khương chịu khó đem qua Pháp tặng tôi. Xin thành thật cảm ơn chị. Câu hò quá quen thuộc, giọng hò lại Huế đặc làm thính giả quên mình đang ngồi bên trời Tây. Trong khoảng khắc tôi tưởng mình đang ở trên sông Hương với trăng, với nước, với tình bạn đậm đà. Câu hò này tôi đã nghe trong một cát xét được toà soạn báo Bách Khoa gởi tặng khoảng 40 năm về trước, bước đầu thúc giục tôi tìm gặp cho được Hỷ Khương. Được gặp nhau chỉ được thực hiện cách đây mấy năm sau khi tập thơ Còn Gặp Nhau của chị ra đời. Bây giờ thấy chị có lẽ hơi mệt, để cho chị nghỉ hơi, anh Khê tiếp tay giúp chị, ngâm bài Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan theo điệu bán xuân bán ai.
            Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
            Cỏ cây chen đá lá chen hoa...

Thính giả muốn còn được "nổi da gà" lại yêu cầu một điệu hò khác. Thì ra không phải một mình tôi ghiền hò. Chị xin lỗi cho biết mấy ngày kia hơi ho, khan giọng, may nhờ ở lại nhà bác sĩ Phạm Doãn Để tận tình chăm sóc nên khá lên được một chút nhưng không dám bảo đảm hoàn toàn giọng hò. Anh Khê kể một chuyện vui. Chị Hỷ Khương thường hay ho nhưng khi chị hò thì lại hết ho cho nên bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc có câu giải thích:
            Chữ hò liền với chữ ho một vần

Có người yêu cầu chị hát một khúc tuồng Đông Lộ Địch. Anh Khê mách ngay: Hỷ Khương thuộc lòng các màn trong tuồng và có thể thế chân bất cứ vai nào. Anh Khê kể lại cốt truyện đồng thời so sánh với nguyên bản Le Cid. Anh Khê thật là một kịch sĩ có tài. Anh kể chuyện hấp dẫn cũng như khi anh hát, anh đàn. Hơn nữa, anh nhấn mạnh những điểm thay đổi trong bản của cụ Ưng Bình để cho chuyện có được tinh thần Việt Nam. Nghe anh kể, ai mà không thèm xem tuồng hát đó. Nghe đâu sang năm Đoàn tuồng sẽ kiếm cách qua trình diễn ở Pháp. Được hay không, không phải chỉ tuỳ ở chị Hỷ Khương. Giờ đây, chị bảo không quen hát nhưng để đáp thịnh tình của thính giả, chị chịu trình bày đoạn Chi Manh đi tu.
            Lánh xa nơi hoả trạch
            Lần đến cảnh Vân Am
            Nợ sanh thành khốn trả đã đành cam
            Giây tình ái đừng vươn cho khỏi lụy...

Hát bội là một thể hát ngày nay ít được thích chuộng, thật ra vì người xem ít biết tuồng hát, ít biết thưởng thức điệu hát. Ngày tôi còn nhỏ, khi mở chợ mới, làng thường mời một đoàn lại hát luôn ba ngày đêm. Tôi lại may mắn có người ông ngoại học hành chẳng đỗ đạt gì nhưng thuộc rất nhiều bài hát bội nên rất thường được nghe ông hát cho nghe. Tôi tự hỏi phải làm gì để môn hát bội còn tồn tại.
Thấy chị Hỷ Khương lần này thật mệt, có người đề nghị chị Thu Tâm lên tiếp giọng. Thu Tâm trước kia là một ca sĩ của Đài Phát thanh Sài Gòn. Chị thú thật từ sáng nay cố học cho thuộc lòng một bài hò mái nhì để hò tặng chị Hỷ Khương. Đó là bài của cố nhạc sĩ Bửu Lộc sáng tác tặng Hỷ Khương cách đây đúng 30 năm:
            Nữ sĩ Hỷ Khương người đoan trang thanh nhã,
            Con cưng cụ Thúc Giạ tiếng Thi xã Vỹ Hương.
            Gia tài cụ để lại cho Hỷ Khương
            Là mực đen giấy trắng nối tiếp đoạn đường thi văn.

Cao hứng Thu Tâm ca luôn bài Nhắc đến miền Trung và hò bài Vác đó ra đơm. Tiếp theo, anh Khê ngâm lối hơi thiền bài thơ bằng chữ Hán của Thiền sư Mãn Giác đã được Ngô Tất Tố dịch:
            Xuân đi trăm hoa rụng, Xuân đến trăm hoa cười,
            Trước mắt sự qua mãi, Trên đầu già đến rồi,
            Đừng tưởng Xuân tàn hoa rụng hết,
            Đêm qua sân trước một cành mai.

Lại có yêu cầu hò mái nhì hát nam bình, Chị Hỷ Khương hò một câu của cụ Ưng Bình cũng đã được biết nhiều, bắt qua một bài nam bình.
            Một vũng nước trong, mười dòng nước đục,
            Một trăm người tục, một chục người thanh.
            Biết đâu gan ruột gởi mình,
            Mua tơ thêu lấy tượng Bình Nguyên Quân.
Muốn kết thúc buổi gặp, chị xin đọc bốn câu thơ Còn Gặp Nhau:
            Còn gặp nhau thì hãy cứ vui
            Chuyện đời như nước chảy hoa trôi
            Lợi danh như bóng mây chìm nổi
            Chỉ có tình thương để lại đời.


Và nhường lời cho một cô cháu Thư Lâm gọi thi sĩ Đông Hồ bằng cố ngoại đọc toàn bài thơ ấy và bài Ông đồ của Vũ Đình Liên. Được gợi ý, anh Khê cũng chịu ngâm theo kiểu xưa, thời 1946, theo anh lúc đang còn lạc đường, vọng ngoại, bài Đi Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp. Về mặt sử nhạc, đây là một dẫn chứng vô cùng quý báu. Riêng về bản thân anh Khê, thấy phong cách và công tác ngày nay của anh, đây là một chuyển hướng rất quan trọng và vô cùng bổ ích cho nền nhạc học Việt Nam.

Hơn một giờ rưỡi đã qua. Thầy Thiện Niệm dọn ra mấy mâm chè khoai môn, Huế quá chừng. Tôi thú thật mấy chục năm rồi không còn nhớ mùi vị. Có lẽ là chè đã giúp lấy lại sức, chị Thu Tâm tự động hò luôn mấy bài hò giã gạo do nhạc sĩ Bửu Lộc sáng tác. Vì nói đến vị nhạc sĩ này, chị Hỷ Khương nhắc lại câu hò Tình Thúc Giạ của ông ta:
            Tình nhã tình thanh là tình Thúc Giạ,
            Tình gieo khắp muôn ngã tình với cả muôn người.
            Tình từ chuyện thật, tình đến chuyện chơi.
            Tình này đẹp lắm ai ơi!
            Được như tình Thúc Giạ dễ mấy ai phụ tình.

Sau mấy bài thơ vui như Áo Lemur dày cao gót hay Trái sầu riêng... cũng theo yêu cầu, chị Hỷ Khương kết thúc buổi gặp gỡ với bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử:
           
...Mơ khách đường xa, khách đường xa,
            Áo em trắng quá nhìn không ra
            Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
            Ai biết tình ai có đậm đà?

Mọi người ra về vào lúc chiều tàn, sương lạnh bắt đầu lên nhưng tôi chắc ai cũng đã mang về một tấm lòng nóng hổi, một trái tim phồng lớn. Riêng tôi thấy Huế xích lại gần hơn. Tôi xa Huế quá lâu nên có thể tôi không thấy Huế như nhiều bạn khác. Huế xưa của tôi chỉ nằm trong những kỷ niệm êm đềm, những giấc mơ không muốn chấm dứt. Xin cảm ơn chị Hỷ Khương không ngại đường sá xa xăm và anh Trần Văn Khê bất chấp sức khoẻ đã cống hiến cho chúng tôi một chiều thu rực rỡ, một chiều Huế khó quên nơi đất khách quê người. Hy vọng rồi còn gặp nhau nữa.
            Được gặp nhau mới còn gặp nhau,
            Chia tay mới đó một ngày nào.
            Đông Tây xa cách bao niềm nhớ,
            Còn gặp nhau hẹn lại gặp nhau.

Xô thành, tối hôm 03-11-02
V.Q.Y
(175/09-03)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Vậy là tròn một năm kể từ sớm đông ấy Nguyễn Xuân Hoàng giã biệt cõi trần khi Huế còn chìm trong sương giá. Chỉ vỏn vẹn 99 ngày gắn bó, nhưng anh là nỗi ray rứt giữa lúc Sông Hương đang ẩn hình những ngọn sóng... Lật giở hơn ngàn trang bản thảo của anh, mấy ai không giật mình trước sự cay cực đến xót xa để có được một đời văn bình dị?Giỗ đầu, bạn bè và đồng nghiệp Xuân Hoàng đã cùng với Sông Hương thắp lên nén nhang tri ngộ...(Nguyễn Khắc Thạch - Lê Văn Chương - Hoàng Diệp Lạc - T. E - Nguyễn Trương Khánh Thi - Đinh Thu - Ngàn Thương - Trần Hạ Tháp - Nhất Lâm)

  • NGÔ MINHTrong những bài viết trước, chúng tôi đã hé lộ đôi chút về những mối tình sau này của Phùng Quán. Lần này lại một mối tình nữa, mà hình như là mối tình đầu ly kỳ hơn đã được Phùng Quán tự kể và chị Bội Trâm phát hiện ra.

  • HOÀNG VŨ THUẬT           Chưa ai để ý đến đâu           Cây đứng khép mình lặng lẽ...                                        (Cây lặng im)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊMột chiều Xuân bên sông Hương. Mặt trời suốt ngày ẩn sau lớp mây xám nhạt nay đã khuất hẳn dưới dãy Kim Phụng xanh thẫm nhấp nhô đằng xa ở bên kia bờ. Một chiếc thuyền từ phía Ngã Ba Tuần hối hả xuôi dòng, tiếng máy nổ khuấy động giây lát mặt sông phẳng lặng trong màn sương chiều mờ ảo bắt đầu buông xuống.

  • NGÔ MINHMỗi nhà văn có một “gu” ẩm thực riêng, không lẫn. Vũ Bằng, Nguyễn Tuân sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, nên rất sành ăn và viết rất hay về các món ăn tinh tế và đài các của Thủ Đô. Nhà văn Phùng Quán cũng có một cá tính ẩm thực rất đặc biệt.

  • TRỊNH THANH SƠN  A. Anh là hoạ sĩ, Nghệ sĩ ưu tú của ngành sân khấu, lại còn là một nhà thơ, nhà viết kịch, nhà báo xông xáo... Ngần ấy công việc anh sắp xếp bố trí theo thời gian như thế nào và anh dành quyết tâm cho việc nào hơn cả?

  • XUÂN ĐÀI(Trích ký sự)Trong gần mấy trăm vòng hoa viếng Phùng Quán, có một vòng hoa rất đặc biệt. Đó là vòng hoa của "những người câu cá trộm" cư ngụ ở những làng dọc đê Yên Phụ, chủ yếu là làng Nghi Tàm, xã Quảng An, Hà Nội. Kèm theo vòng hoa là một phong bì phúng điếu mà số tiền gấp đôi tiền phúng điếu của cơ quan Hội Nhà văn Việt .

  • NGUYỄN TRỌNG HUẤN(Mười năm Kỷ niệm... Một cuộc rong chơi)Trong quan hệ bè bạn lâu năm, có lẽ chưa lần nào chúng tôi có với nhau một cuộc rong chơi đã đời và thú vị như lần ấy. Mà hình như đấy là cuộc đi cuối cùng của Quán trong cõi đời này. Còn những cuộc du hí tiếp theo ở thế giới bên kia với những ai thì cho đến bây giờ tôi cũng không được rõ lắm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTrong câu chuyện vui của giới văn nghệ sĩ trước những công việc có tính chất tổng kết, phân loại đội ngũ, một số người được anh em phong tặng danh hiệu “nhà-thơ-một-bài”, “nhạc-sĩ-một-bài”...

  • LTS: Do đặc trưng nghề nghiệp nên mỗi nhà văn đều có thiên chức một nhà giáo. Bởi vậy, những người vừa là nhà giáo vừa là nhà văn thì đều có thể gọi họ là những nhà giáo kép.Nhân ngày nhà giáo Việt Nam, Sông Hương trân trọng giới thiệu một số ý kiến của các nhà giáo "kép" ở Huế nói về cái nghiệp dĩ riêng mang tính xã hội cao của họ.

  • HỒ THẾ HÀTrại sáng tác Văn học nghệ thuật năm 2002 do Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế và Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức từ ngày 27 - 8 - 2002 đến ngày 6 - 9 - 2002 đã thành công và để lại những trang viết giàu ấn tượng về cuộc sống và con người, đặc biệt là cuộc sống và con người Phú Thuận, Phú Vang - vùng quê có nhiều truyền thống và tiềm năng văn hoá vật chất và phi vật chất vừa trải qua một nỗi đau lớn do thiên tai gây ra.

  • ĐẶNG NHẬT MINHNhững ngày đầu tiên khi bước chân vào con đường sáng tác điện ảnh tôi đã may mắn có nhà văn Hoàng phủ Ngọc Tường ở bên cạnh.

  • TRẦN HUY THANHTừ ngày 1 đến 15/7/2002, được sự giúp đỡ của Bộ Văn hoá Thông tin, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế đã cử đoàn văn nghệ sĩ đi dự trại sáng tác văn học nghệ thuật tại Nhà sáng tác Vũng Tàu.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊBạn đọc cả nước - nhất là những ai quan tâm đến lịch sử và tiểu thuyết lịch sử - hẳn đã biết Nguyễn Mộng Giác là tác giả bộ tiểu thuyết trường thiên “Sông Côn mùa lũ” (SCML) 4 tập, 2000 trang viết về thời Tây Sơn-Nguyễn Huệ (NXB Văn học-Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 1998).

  • "Những bức tranh sơn thủy đầu tiên đã chiêu đãi chúng tôi quýt cam và bánh mỳTrưa no nê nhìn phố xá trăm màu.Tối tìm chỗ ngủ lang thang nhớ mẹ".

  • Sau ngày thất thủ Kinh đô (Huế), vua Hàm Nghi xuất bôn hạ chiếu Cần Vương kêu gọi toàn dân đứng lên chống Pháp. Sau ba năm chiến đấu ở rừng sâu, vua Hàm Nghi bị Trương Quang Ngọc làm phản bắt vua nộp cho Pháp. Để cách ly ngọn cờ yêu nước với quốc dân Việt Nam, cuối năm 1888, thực dân Pháp đã lưu đày vua Hàm Nghi qua Algérie thuộc Pháp. Không hy vọng có ngày được trở lại Việt Nam, nên vua Hàm Nghi đã lập gia đình tại Algérie rồi 40 năm sau ông mất ở đó.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGPhương mất đột ngột ở Quảng Trị. Nghe tin anh ra đi, bạn bè văn nghệ Huế không bàng hoàng, cũng không cảm thấy sửng sốt. Chỉ thấy lòng bùi ngùi, như khi ta nhìn thấy một ngôi sao chưa bao giờ sáng bỗng một ngày tắt lịm trong lặng lẽ.

  • LTS: Phan Đăng Lưu là một nhà cách mạng tiền bối, tiêu biểu của Đảng từng hoạt động ở Huế và có ảnh hưởng lớn đến trí thức văn nghệ sĩ yêu nước thời bấy giờ. Chính nhà thơ Tố Hữu cũng đã thổ lộ điều đó trong bài thơ Quê me (Anh Lưu anh Diểu dạy con đi).Nhân 100 năm ngày sinh Phan Đăng Lưu (5.5.1902 – 5.5.2002), Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số tư liệu về đồng chí, đặc biệt là bức Thư viết từ khám tử hình – bức thư mang đặc trưng "đa nghĩa" của một tác phẩm văn học nên nó đã vượt qua được sự kiểm duyệt khắt khe của kẻ thù.

  • PHÙNG QUÁN... Vì vậy mà có sự rung động bí mật của ý nghĩ, khiến nhà bác học trở thành người thần bí, và thi sĩ thành đấng tiên tri.                                                    (Victor Hugo - Lao động biển cả).

  • NGUYỄN QUANG HÀRa Hà Nội mùa thu này tôi muốn đến thăm anh Lê Khả Phiêu. Những ngày anh đương chức, đến, người ta nghĩ mình cơ hội. Nhưng nay anh đã nghỉ, đến thăm là nghĩa tình đời. Lòng mong muốn ấy của tôi, được anh chấp nhận và hẹn giờ gặp.