Một bài thơ và ba bản dịch

14:23 27/01/2010
HỒNG DIỆUTrương Mỹ Dung đời Đường (Trung Quốc) có một bài thơ tình yêu không đề, được nhiều nhà thơ Việt Nam chú ý.

Ảnh: Internet

Nguyên văn bài thơ như sau (phiên âm):

                        VÔ ĐỀ
            Nhất áp xuân giao vạn lý tình
            Đoạn trường phương thảo đoạn trường oanh
            Nguyện tương song lệ đề vi vũ
            Minh nhật lưu quân bất xuất thành

Có thể dịch hay diễn giải bài thơ thế này:
(Trong buổi chia tay hôm nay) một chén (rượu) xuân mà mang tình nghĩa vạn dặm
(Đến) cỏ cây, (đến) chim oanh cũng đau xót
(Thiếp) xin lấy hai dòng nước mắt làm mưa nhỏ
Giữ chàng, không để chàng ngày mai đi khỏi thành

Tương truyền, tác giả bài thơ - Trương Mỹ Dung - là cô gái xinh đẹp. Một viên quan muốn chiếm nàng, bị nàng cự tuyệt, tìm cách để cha nàng phải đi tù. Viên quan trẻ Phan Trung biết chuyện, cứu cha nàng, và được ông gả con gái cho. Sắp đến ngày cưới, Phan Trung phải vâng lệnh quan trên đi làm công vụ. Trong bữa rượu tiễn đưa, Trương Mỹ Dung có bài thơ này.

Ở ta, bài thơ có nhiều bản dịch. Xin giới thiệu ba bản; và theo thời gian dịch mà tôi được biết, có thể xếp thứ tự như sau:

                        1
            Một chút men xuân, vạn dặm tình
            Nát lòng hoa cỏ, nát lòng oanh
            Nguyện đem nước mắt làm mưa lớn
            Mai sớm ngăn chàng khỏi xuất chinh
                                                YÊN HUY dịch

                        2
            Chén xuân chan chứa bao tình
            Cỏ thơm xơ xác, con oanh thẫn thờ
            Sớm mai chàng đã đi chưa
            Xin đem nước mắt làm mưa giữ chàng
                                    NGUYỄN BÍNH dịch

                       
3
            Một chén xuân đưa, vạn dặm tình
            Não màu cỏ biếc, não lời oanh
            Xin đem dòng lệ làm mưa nhỏ
            Mai sáng bên đường níu bước anh
                        NGỌC LIÊN (NGÔ LINH NGỌC) dịch

Bản thứ nhất in trong tập kịch thơ Bùi Thị Xuân - Đặng Dung - Nguyễn Thị Kim của Yên Huy, Nhà xuất bản Quốc văn, Hà Nội in năm 1946. Bản thứ hai in trong một số tuyển tập thơ sau khi nhà thơ Nguyễn Bính qua đời (1966). Bản thứ ba in cùng với bản thứ hai trong tập thơ tình thế giới Lại nói về em, Hồng Diệu tuyển chọn, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1988.

So sánh ba bản dịch này tưởng cũng có thể thấy được đôi điều hữu ích về nghệ thuật dịch thơ.

Tôi cho rằng bản thứ nhất được câu đầu; nó có một chút men xuân mà hai bản kia không có. Còn ba câu sau đều hỏng. Câu thứ hai, nguyên văn cùng là đoạn trường ca (đoạn trường phương thảo, đoạn trường oanh); dịch nát lòng oanh thì đúng vì chim oanh là động vật, nhưng dịch nát lòng hoa cỏ thì không ổn, vì hoa cỏ là thực vật... Câu thứ tư, nghĩa của mấy chữ xuất chinh (đi trận) của bản dịch hẹp hơn hẳn nghĩa của mấy chữ xuất thành (ra khỏi thành) ở nguyên bản: ra khỏi thành có thể đi làm nhiều việc, không nhất thiết chỉ đi trận. Sai đến tai hại là câu thứ ba. Hai chữ vi vũ mà dịch là mưa lớn thì vừa phản vừa thô. Phản ở chỗ vi (nhỏ) mà dịch ngược hẳn là lớn. Thô ở chỗ nước mắt thể hiện tình cảm con người vốn hiếm hoi, quý giá mà khi nhỏ lệ lại như mưa lớn (mưa lớn tất phải ào ào, xối xả)!

Bản thứ ba dịch rất sát nghĩa. Ở đây, câu thứ hai có sáng tạo, nhưng từ ngữ nhìn chung còn "thật thà" và ít chất thơ (não, mai sáng, níu bước). Câu thứ ba dịch hoàn toàn đúng nguyên văn, vi vũ = mưa nhỏ, nhưng thật ra là sai, vì trong nghĩa tinh vi của thơ, có thể hỏi: mưa nhỏ làm sao giữ người ta ở lại được?

Rất đặc sắc, là bản thứ hai, của nhà thơ Nguyễn Bính. Chỉ tiếc mỗi câu đầu, còn hơi sáo một chút. Ba câu sau thì thật đặc sắc. Xơ xác dùng cho cỏ, thẫn thờ dùng cho oanh là một sáng tạo đặc biệt để dịch hai chữ đoạn trường. Hai chữ vi vũ, nhà thơ không dịch sai là mưa lớn như bản thứ nhất, cũng không dịch sát mưa nhỏ như bản thứ ba, mà chỉ dịch mưa, thật là tài. Hai câu ba và bốn còn được đổi chỗ cho nhau để chuyển một cách phóng túng từ câu khẳng định ở nguyên bản thành câu nghi vấn ở bản dịch. Xuất thành (đi khỏi thành) được giản lược để dịch thành đi cũng hợp lý.

Như vậy là Nguyễn Bính còn thể hiện nghệ thuật thơ độc đáo của mình ở một bản dịch có thể nói là tài hoa.

H.D
(120/02-99)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÚY HẰNG  

    Xoài xanh ở xứ sương mù” là tập tản văn dày 340 trang do nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh ấn hành cuối năm 2018. 

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH 

    Chân trời là giới hạn của tầm mắt, dẫn đến ảo tượng về sự giao nối giữa trời và đất. Do vậy, chân trời vừa hữu hạn, vừa vô hạn.

  • ĐÔNG HÀ  

    Tôi yêu thơ Nguyễn Trọng Tạo từ những năm còn là sinh viên. Tuổi trẻ nhiều háo hức, về tình yêu, về non xanh và tơ nõn. Nhưng khi bắt gặp những câu thơ chảy ngược trong tập Đồng dao cho người lớn, tôi lại choáng váng. 

  • NGÔ MINH

    Có một ngày nhạt miệng, thèm đi. Đi mãi mới hay phố cũng thiếu người. Có một ngày nằm dài nghe hát. Rồi ngủ quên trong nỗi buồn nhớ mông lung.

  • NGỌC THẢO NGUYÊN

    Buổi sinh hoạt được đặt tên là Tọa đàm bàn tròn về thơ. Đây là buổi sinh hoạt mang tính chất thử nghiệm của Phân hội văn học (lại một cách nói rào đón nữa chăng?)

  • ĐỖ LAI THÚY

    Duy nhất chỉ thơ mới đứng cùng bình diện với triết học và suy tư triết học
                                        Heidegger
    Con người, sống trên đời, như một thi sĩ
                                        Heidegger

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Trong thơ tình, tình yêu là kẻ chiến thắng sau cùng. Chứ không phải lý trí, đạo đức, chính trị hay lịch sử. Bao giờ và ở đâu cũng thế.
    Chỉ còn anh và em
    Cùng tình yêu ở lại

  • PHAN ĐÌNH DŨNG   

    Từ hai cuốn sách: Những người thân trong gia đình của Bác Hồ, Bác Hồ gặp chị và anh ruột; soi vào những bài thơ của Bác, chúng ta có dịp nghiền ngẫm thêm về những tình cảm riêng/chung của Người.

  • NGUYỄN XUÂN HÒA

    Thảo Am Thi Tập của Nguyễn Khoa Vy không chỉ có giá trị về mặt nội dung mà còn có giá trị về mặt nghệ thuật.

  • LÊ KIM PHƯỢNG

    Với thi sĩ Cao Quảng Văn, thơ là cảm xúc thăng hoa tuyệt đỉnh và nếu văn chương có đích, thì thơ là tuyệt đích của tâm hồn. Ở chốn đó, sáng tạo ra đời. Vì vậy, thưởng thức thơ không thể không bằng cảm xúc từ trái tim của người đọc: “Thơ là tiếng nói từ trái tim đập vào trái tim”.

  • LTS: Nhà thơ Ngô Minh, sinh ngày 10 tháng 9 năm 1949; Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, cộng tác viên thân thiết của Sông Hương. Sau cơn tai biến nặng từ trưa 26 tháng 11 năm 2018, nhà thơ đã từ trần tại nhà riêng vào lúc 23 giờ 12 phút ngày 3 tháng 12 năm 2018. Nhà thơ được an táng tại Khu nghĩa trang phường Hương Long, thành phố Huế (sau lưng chùa Thiên Mụ).
    Sông Hương thành kính chia buồn cùng gia quyến và bạn đọc, xin đăng bài viết dưới đây của nhà thơ Đông Hà, như là nén nhang tưởng nhớ, vĩnh biệt một người thơ…

                Ban Biên tập

  • HỒ THẾ HÀ

    Hoàng Diệp là thơ nổi tiếng với thi tập Xác thu (Nxb. Nam Kỳ, Hà Nội, 1937) trước khi trở thành nhà phê bình, nghiên cứu văn học.

  • PHAN VĂN NAM    

    Sau các tập thơ Cùng đi qua mùa hạ (Nxb. Văn nghệ, 2005), Phía bên kia cây cầu (Nxb. Phụ nữ, 2007) và Ngày linh hương nở sáng (Nxb. Hội Nhà văn, 2011) được trao nhiều giải thưởng văn chương uy tín, tác giả Đinh Thị Như Thúy tiếp tục ra mắt tập thơ mới Trong những lời yêu thương (Nxb. Hội Nhà văn, 12/2017).

  • VĂN THÀNH LÊ    

    1.
    Có thể nói Trần Đăng Khoa là trường hợp lạ của văn đàn Việt. Giữa thời đại cả nước lo ra đồng chạy ăn và ra trận đánh giặc, cuối những năm 1960 đầu những năm 1970, cậu bé Khoa cùng những cô bé/cậu bé 9 - 10 tuổi khác như Cẩm Thơ, Hoàng Hiếu Nhân, Chu Hồng Quý, Trần Hồng Kiên… “đã đi lạc” vào thơ.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ    

    Nhiều người đến dự buổi giới thiệu Tự truyện “Mạ Tui” do Tạp chí Sông Hương và Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán phối hợp tổ chức không biết Nguyễn Viết An Hòa (NVAH) là ai, nhưng khi Ban Tổ chức cho hay đó là bút danh trên Facebook (Fb) của thầy giáo Nguyễn Viết Kế, thì đều vui vẻ thốt lên: “À…”.

  • ĐỖ LAI THÚY

    Lý thuyết hệ hình là một hệ pháp nghiên cứu sự phát triển. Văn học Việt Nam, do những đặc điểm riêng thuộc của mình, không phát triển nối tiếp như ở các nước phương Tây, mà gối tiếp như những làn sóng, con trước chưa tan thì con sau đã tới, hay đúng hơn vừa là nối tiếp vừa là gối tiếp.

  • SƠN CA 

    Mất mát, tận cùng của mất mát. Cô đơn, tận cùng của cô đơn. Thực tại “vặn xoắn con người đến mức cảm giác không còn hình hài”.

  • NGUYỄN THANH TÂM    

        …đi về đâu cũng là thế…