NGUYỄN ĐÌNH MINH KHUÊ
Ảnh: wiki
Siêu hư cấu và Auster
Bản chất của văn học là hư cấu (fiction). Điều đó không còn là một vấn đề đáng bàn cãi khi từ những thế kỷ trước Công nguyên, Aristotle đã đề cập và luận giải về vấn đề này trong Thi học (Poetics) - một trong những trước tác lý luận văn học đầu tiên của phương Tây. Tuy nhiên, từ đó đến nay, trong các sáng tác văn học từ thời trung đại cho đến tận nửa đầu thế kỷ XX - thời của chủ nghĩa hiện đại, người ta hầu như vẫn chưa hề dám tuyên xưng một cách trực tiếp, dũng cảm và thản nhiên rằng những điều họ nói trong tác phẩm của mình đơn giản là sự trình hiện những thực tại hư tưởng, mà đa phần chỉ xì xầm vào tai nhau và ngầm hiểu với nhau, dù luôn xác tín, về sự tồn tại ở mông lung đâu đó của một thứ căn cốt văn học được gọi là hư cấu. Tuy nhiên, đến kỷ nguyên hậu hiện đại, chính xác là từ những năm 60 của thế kỷ XX trở lại đây1, trong văn học bắt đầu xuất hiện nhiều tác phẩm thực hành những cú “pastiche” ngoạn mục: đem chính cái bản thể uyên nguyên của mình - tính hư cấu - ra mà phô trương và giễu nhại. Siêu hư cấu (métafiction) ra đời từ đó như một khái niệm phổ quát diễn tả tình thế lộ mặt của tính hư cấu văn học: “Siêu hư cấu là thuật ngữ dùng để chỉ lối viết hư cấu - lối viết quan tâm đến tình thế của chính nó một cách tự ý thức và có hệ thống như là một thể giả lập dùng để tra vấn về mối quan hệ giữa hư cấu và thực tại”2. Như vậy, siêu hư cấu là hư cấu về hư cấu, là sự tự nhận thức của chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận về quá trình hư cấu. Trong các sáng tác mang màu sắc siêu hư cấu, nhà văn sẽ tự thân bóc trần sự dụng công hư cấu của chính mình cũng như tính hư cấu của các thực tại, các tự sự trong tác phẩm, đồng thời nỗ lực xóa bỏ mọi sự cảm giác tín thác nơi người đọc. Ông sẽ bảo với các độc giả của mình rằng: Anh thấy đấy, tất cả đều chỉ là những trò chơi của tưởng tượng mà tôi, trong một giờ phút vui thú nào đó, đã tạo ra, và tôi sẽ thật hân hoan nếu anh cùng bước vào đây, cùng tôi chơi đùa trong trò diễn của chữ nghĩa.
Paul Auster tỏ ra rất thích thú với kiểu cách sáng tác ấy. Hầu như trong bất kỳ một tiểu thuyết nào, dù ngắn dù dài, Auster cũng vận dụng siêu hư cấu như một yếu tính của phong cách sáng tác. Tuy nhiên, nếu như trong Thành phố thủy tinh, Căn phòng khóa kín, Người trong bóng tối, màu sắc siêu hư cấu phát lộ rõ nét (ví như trong Thành phố thủy tinh, Quinn lấy danh Auster để giả lập vai một thám tử tư và bị chính Auster-tác-giả vạch trần sự giả lập ấy; hay như trong Người trong bóng tối, sự khả tín của những câu chuyện mà nhà phê bình Brill tạo lập hầu như đều bị Auster cáo buộc là ngụy tạo), thì ở Moon Palace, cấu trúc siêu hư cấu lại có phần bí hiểm hơn, chứa đầy những ẩn ngữ: Moon Palace vừa là một siêu hư cấu về “Kẻ khác” (the Other), vừa là những vòng lặp, những cuộc uốn xoắn, vặn gãy siêu hư cấu ấy.
Hư cấu song trùng như cuộc đối thoại của những kẻ khác và tình thế bất khả tín của nó
Những cuộc đời trong Moon Palace song trùng với nhau một cách lạ kỳ như thể tất cả chỉ là những bản thể khác của cùng một cái tôi duy nhất, mà cụ thể ở đây là nhân vật trung tâm của truyện - Marco Stanley Fogg. Nếu Fogg không biết cha mình là ai, lại mồ côi mẹ từ những năm anh còn bé tí, phải đến ở với bác Victor trong chật vật, thì các nhân vật khác có liên quan đến anh cũng có kiểu cuộc đời mồ côi đầy bi thương và cô độc như thế. Solomon Barber, người được Paul Auster cho là cha của Marco Fogg (thực ra cũng chỉ là một mảnh của siêu hư cấu), có cuộc đời gần như là nguyên bản với Marco. Ngay từ nhỏ, ông đã không hề biết cha đẻ mình là ai, chỉ biết ông là một họa sĩ đã tử nạn trên đường đến vùng đất phía Tây nước Mỹ để sáng tác; còn mẹ ông, cũng rất giống với hình tượng người mẹ của Marco, là một người đàn bà không mấy bình thường vì loạn trí. Hay như Kitty Wu - bạn gái của Fogg, cô lớn lên ở Tokyo, trong gia đình một cựu quân Tưởng Giới Thạch thất trận, phải đưa cả gia đình ra nước ngoài sinh sống. Ông có rất nhiều vợ, và mẹ Kitty chỉ là một trong số những người cha cô từng yêu thương. Sau khi bà chết, ông đột nhiên quyết định gửi cô sang Mỹ du học, và rồi cô mãi mãi chẳng trở về, dù là khi ông lâm bệnh nặng từ trần. Những câu chuyện kiểu như thế xuất hiện gần như liên tục và thường xuyên trong Moon Palace đến nỗi, khi nghe Fogg kể về cuộc đời Kitty Wu, Zimmer phải thốt lên: “Nghe có vẻ quen quen, đúng không?”, “bỏ đi màu sắc địa phương, nó sẽ gần như trở thành câu chuyện của một người khác mà tớ biết”3. Có thể nói, đây là một trong số những trường hợp hiếm hoi Auster cho chính những nhân vật trong câu chuyện của mình phát ngôn để vạch trần sự hư tưởng của các tự sự. Tuy nhiên, đúng như phát ngôn của Zimmer, hình như những cuộc đời được kể lại trong Moon Palace chỉ là một cuộc phân thân của một bản thể gốc, và những kẻ khác cùng tồn hiện trong bản thể ấy đang đối thoại cùng nhau, tra vấn nhau, tương chiếu lẫn nhau.
Bên cạnh các chi tiết về xuất thân và hoàn cảnh gia đình, cuộc đời của ba thế hệ trong gia đình Barber - Julian Barber (hay Thomas Effing), Solomon Barber và Marco Fogg - còn có nhiều điểm tương đồng trùng hợp đến lạ kỳ khác. Một trong những điểm song trùng đặc biệt ấy là định mệnh du hành mà cả ba nhân vật đều gắn bó như một lời nguyền bất khả hóa giải. Julian dấn thân về miền Tây nước Mỹ, để rồi phải trải qua những điều khủng khiếp nhất cuộc đời. Đến Solomon và Marco, định mệnh ấy lại chính là chuyến phiêu lưu về vùng núi non Utah để khám phá những nơi chốn đã ghi nhiều dấu ấn khó quên trong đời bố và ông nội mình (dù Solomon đã mất bất đắc kỳ tử trên đường vì lọt xuống một huyệt mộ). Thậm chí, cái tên của các nhân vật này cũng hàm chứa một định mệnh du hành không thể chối cãi. Cái tên Solomon, ngoài sự tương đồng với tên gọi một vị vua thông thái của dân tộc Hebrew, còn có phần tiền tố “Sol” rất đặc biệt, hàm chứa một định mệnh du hành và khám phá những con đường đi của vũ trụ. Auster lý giải: “[…] Ông trở thành Sol. Các nhà thơ thời Elizabeth dạy ông rằng đó là một từ cổ chỉ ‘mặt trời’, và không lâu sau ông phát hiện đó còn là một từ tiếng Pháp có nghĩa ‘mặt đất’. Điều này khiến ông nghĩ mình vừa là mặt trời vừa là trái đất, và trong nhiều năm ông hiểu nó theo hướng chỉ một mình ông đủ khả năng bao quát trọn vẹn mọi sự mâu thuẫn của vũ trụ”.4
Tuy nhiên, cái tên Marco Stanley Fogg mới thực sự phản ánh rõ nét định mệnh cay nghiệt nhưng cũng đầy mơ mộng ấy: “Marco Stanley Fogg. Theo ông, cái tên cho thấy du hành đã ăn sâu vào máu tôi, và cuộc đời sẽ mang tôi đến những nơi chưa từng đặt dấu chân người. Marco, một cách hoàn toàn tự nhiên, gợi đến Marco Polo, người châu Âu đầu tiên đến Trung Quốc; Stanley là phóng viên người Mỹ tìm được dấu vết bác sĩ Livingstone ‘ở giữa châu Phi tăm tối nhất’, và Fogg, đó là Phileas, người trở thành ngọn gió bay quanh địa cầu trong vòng chưa tới ba tháng”.5
Không chỉ có những định mệnh song trùng, cuộc đời ba thế hệ nhà Barber còn trải qua nhiều biến cố giống nhau một cách hết sức ngẫu nhiên, mà đơn cử là cơn đói và nỗi cô đơn cùng kiệt mà cả ba đều ít nhất đã một lần nếm trải, như một cách cảm nghiệm sâu sắc nhất bản thể của chính mình. Trong chuyến đi đến vùng Canyon miền Tây hoang dã, vì bị Scoreby phản trắc, Byrne lại không may rơi xuống vực chết đi, Julian Barber đã bị bỏ lại giữa sa mạc mênh mông, không thức ăn nước uống và phải chịu nỗi cô đơn cùng khốn nhất: “Một khi Byrne chết đi, tôi không còn phải bận tâm đến điều gì nữa, và sự trống rỗng đó làm tôi hoảng sợ, tôi mang một nỗi sợ ghê gớm đối với nó”6. Với Solomon Barber, tình thế của cơn đói bản thể như thế lại nảy sinh trong một hoàn cảnh khác. Là một người đàn ông to béo, đồ sộ, ông được bác sĩ khuyên rằng phải giảm cân, và cuộc chiến đấu chống lại cơn đói là một cuộc truy vấn tồn tại, đúng như nhận xét của Marco Fogg, “cứ như thể một nửa con người ông đã biến mất, như thể một khi tiến trình đã được khởi động, không tránh khỏi việc phần còn lại của ông cũng sẽ phải biến mất”7. Tương tự, với Marco Fogg, cơn đói cũng đến như một bản mệnh: vì túng thiếu, anh đã phải trải qua một chuỗi ngày dài đói, mỗi ngày chỉ được ăn hai quả trứng; thậm chí, khi chỉ còn hai quả trứng cuối cùng, anh lại vô tình làm vỡ nó; cuối cùng, anh phải lang thang trong công viên, lạnh, đói, bệnh tật, và nhất là phải chịu cảnh huống cô đơn sâu thẳm và đau đớn nhất. Tuy nhiên, theo những phân tích kể trên, vì sao Paul Auster lại cố ý xây dựng những hình tượng của cùng một gia tộc với những nét tương đồng đến bất ngờ như thế? Theo ý kiến của người viết, dụng ý của Auster là tạo ra một hiện tượng mờ nhòe bản thể, nghĩa là vừa phân thân bản thể Marco Fogg, vừa làm cho các phân mảnh ấy trượt lên nhau, trì kéo, liên đới nhau, từ đó khiến người đọc cảm thấy băn khoăn, trăn trở, liên tục truy vấn về tính xác thực của các tự sự đang hiện lên trước mắt họ. Dường như, Thomas Effing (hay Julian Barber) không hề kể về chính cuộc đời mình mà đang kể thay Marco Fogg về một bản sao định mệnh của anh, còn cuộc đời Solomon lại là hình ảnh phía bên kia tấm gương mà Fogg đang soi chiếu và ngược lại. Những tương ảnh ấy chính là một phần cội nguồn tạo tác nên thế giới siêu hư cấu của Moon Palace.
Tuy nhiên, không dừng lại ở đây, người đọc còn có thể bắt gặp những câu chuyện song trùng với cuộc đời của các nhân vật, mà tiêu biểu là Julian Barber (hay Thomas Effing), trong những ấn phẩm hư cấu được Auster thêm vào như một cách mờ hóa thế giới siêu hư cấu - thế giới của các tự sự vốn đã rất xáo trộn và bất khả tín - trong tiểu thuyết này. Khi kể cho Marco Fogg nghe về cuộc đời mình, Thomas Effing đã yêu cầu anh phải chép lại thành một văn bản hoàn chỉnh, tựa đề Cuộc đời của Julian Barber, đồng thời viết một bản cáo phó ngắn gửi về cho tờ The New York Times như một cách tuyên cáo, lý giải chính thức với cộng đồng về sự mất tích của người họa sĩ trẻ vốn được cho là đã chết năm xưa. Hay với Solomon Barber, trăn trở về số phận kỳ lạ của người cha xấu số, ông đã vận dụng toàn bộ mọi khả năng hư tưởng của mình mà viết ra quyển tiểu thuyết Máu của Kepler với nhiều đoạn đầy kinh hãi. Câu chuyện được kể lại trong những ấn phẩm này cũng vô cùng hư cấu, khó tin, vì về bản chất, chúng cũng là một sự diễn giải của những kẻ khác về cùng một bản thể trung tâm, một bản thể với định mệnh du hành, và hơn hết, một bản thể với số phận phải chịu đựng những cô đơn cùng khốn, những dằn vặt âm ỉ của kiếp hiện sinh.
Siêu hư cấu bị uốn xoắn hay vòng lặp của lời nguyền lưu đày
Có thể nhận thấy một cách rõ ràng rằng, nếu trong các tác phẩm khác, cấu trúc siêu hư cấu thường được Auster xây dựng không quá phức tạp (như tình thế của Quinn trong Thành phố thủy tinh hay Brill trong Người trong bóng tối,…), thì trong Moon Palace, không chỉ một hư cấu duy nhất bị bóc trần và chúng không chỉ bị bóc trần một lần, mà thế giới siêu hư cấu trong cuốn tiểu thuyết này tràn ngập những phân mảnh được tái thiết và vặn xoắn liên tục, tạo thành một vòng lặp gợi nhiều ý nghĩa biểu trưng. Vòng lặp ấy liên quan mật thiết đến cuộc đời ba nhân vật thuộc dòng họ Barber. Tuy nhiên, nếu ở những đoạn viết này, tôi quan tâm đến việc những cuộc đời ấy chỉ là những phân mảnh của cùng một bản thể đang tham dự trên chuyến du hành khám phá và đối thoại cùng nhau, thì ở đây, tôi thử quan sát từ một góc độ khác: nhìn chúng như những siêu hư cấu riêng lẻ được tái lặp liên tục trong một định mệnh quy hồi - định mệnh lưu đày.
Cả ba nhân vật, từ Julian Barber, Solomon Barber đến Marco Stanley Fogg, đều bị ám ảnh bởi vùng đất nằm ở cực Tây nước Mỹ, và dường như cứu cánh cuối cùng của họ là đến được vùng đất ấy như tìm đến một cách giải thoát. Julian Barber, từ khi được gặp giáo sư Tesla, đã lên đường đến vùng núi Utah, bỏ lại vợ con, bỏ lại sự nghiệp và tất cả. Solomon lại luôn cố hình dung và mơ tưởng về vùng núi non cực Tây, thậm chí viết cả một quyển tiểu thuyết về vùng đất ấy như một cách giải tỏa những ẩn ức, băn khoăn về cái chết bí ẩn của cha mình. Còn với Marco Fogg, vùng núi đồi hoang dại ấy lại làm anh liên tưởng đến một Mặt trăng trên chính địa cầu, và vì thế, biểu tượng mặt trăng xuất hiện trong đời Fogg như một định mệnh, từ cái quán Hoa kiều treo biển Moon Palace, từ cuộc đổ bộ đầu tiên của người Mỹ lên mặt trăng năm 1969 cho đến một huyền thoại cũng liên quan tới mặt trăng do chính anh bịa đặt ra - huyền thoại về Cyrano de Bergerac.
Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là, khao khát ấy không chỉ ở yên trong tâm thức của các thành viên ba thế hệ nhà Barber, mà nó đôi lúc còn phát lộ dữ dội, thôi thúc họ bước vào một cuộc hành trình chinh phục, dù vô cùng nguy hiểm và gian nan. Song những cuộc du hành ấy không đơn thuần là một sự giải tỏa khao khát bản thể, mà chúng, về bản chất, còn là những hành trình tự lưu đày. Nói như thế là bởi, vùng đất phía Tây nước Mỹ là nơi chứng kiến những cuộc tàn sát cuối cùng của dân da trắng đối với thổ dân da đỏ trước khi họ bị xóa sổ gần như hoàn toàn, và những người da trắng, vì thế luôn mang trong mình nỗi ám ảnh về cái cúi đầu tạ tội trước những tộc người dị chủng và định mệnh lưu đày như một cách trừng phạt tự thân. Định mệnh này kéo dài dai dẳng và bền bỉ, âm thầm nhưng cay nghiệt và đớn đau, bởi nó truyền kiếp từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ kia. Julian chất chứa đầy ân oán với những người da đỏ; sự nghiệp nghiên cứu và quyển tiểu thuyết của Solomon lại có liên quan trực tiếp đến lịch sử và số mệnh của các dân tộc thổ dân; hay với Marco, khi một mình lái xe đến vùng núi đá Utah tìm kiếm những nơi chốn đã gắn bó cùng ông nội mình, anh lại bị những thổ dân lấy mất xe, tiền và khiến anh rơi vào một trạng thái trống rỗng cùng cực. Có thể thấy, Auster đã rất khéo léo xoắn vặn những siêu hư cấu để chúng tạo thành một cấu trúc có khả năng biểu đạt những vấn đề có liên quan đến định mệnh và số phận của một tộc người. Những hư cấu nhập nhoạng, bất khả tín trong Moon Palace, vì thế, cũng không dừng lại ở việc tạo ra một cuộc đối thoại và truy vấn giữa những kẻ khác trong bản thể của một cá nhân vô danh, mà còn là giữa những kẻ khác nằm sâu trong cái bản thể uyên nguyên của những lớp, những thế hệ người da trắng đã vượt nửa vòng trái đất để đến đây từ hơn 300 năm trước, man dại và nhẫn tâm tàn sát cả một tộc người bản địa [thậm chí là nhiều tộc người].
Moon Palace là một tiểu thuyết khó đọc nằm ẩn dưới hình hài của một câu chuyện dễ chịu và nhẹ nhàng. Nhưng cũng chính vì thế mà nó đáng đọc. Đọc Moon Palace, phải đọc đủ lâu và đủ sâu, để đau đớn và hân hoan nghe những bản thể đối thoại cùng nhau, để nghe những day dứt, ăn năn, và cả những lời hối lỗi chưa bao giờ là quá muộn.
N.Đ.M.K
(TCSH353/07-2018)
-------------
1. Phạm Ngọc Lan (2013), Tư liệu văn học: lý thuyết siêu hư cấu. Xem ngày 01/06/2017. Nguồn: http://www.hcmup.edu.vn/
2. Patricia Waugh (2001), Metafiction: The Theory and Practice of Self-Conscious Fiction, Routledge, tr.2.
3. Paul Auster (2009), Moon Palace, Cao Việt Dũng dịch, Hà Nội: Nxb. Văn học, tr.141.
4. Paul Auster (2009), sđd, tr.399.
5. Paul Auster (2009), sđd, tr.17-18.
6. Paul Auster (2009), sđd, tr.258.
7. Paul Auster (2009), sđd, tr.472.
ANNIE FINCH
Chúng tôi khát khao cái đẹp thi ca, và chúng tôi không e dè né tránh những nguồn mạch nuôi dưỡng chúng tôi. Chúng tôi sẵn sàng với chủ nghĩa Toàn thể hình thức (omniformalism), cho một thi pháp phong phú và mở rộng, giải phóng khỏi những doanh trại của những cuộc chiến thi ca đã chết rấp.
Chuyên luận THƠ NHƯ LÀ MỸ HỌC CỦA CÁI KHÁC (Nxb. Hội Nhà văn - Song Thuy bookstore, 2012, 458tr) gồm ba phần: Phần một: THƠ NHƯ LÀ MỸ HỌC CỦA CÁI KHÁC, Phần hai: CHÂN TRẦN ĐẾN CÁI KHÁC, Phần ba: NHỮNG NẺO ĐƯỜNG CỦA CÁI KHÁC.
NGUYỄN QUANG HUY
(Khảo sát qua trường hợp "Người sông mê" qua cái nhìn của lí thuyết Cổ mẫu)
NGUYỄN HỮU TẤN
Trong buổi lễ mừng thọ thất tuần, Sigmun Freud đã từng phát biểu: “Trước tôi, các thi sĩ và triết gia đã sớm phát hiện ra vô thức, còn tôi chẳng qua cũng chỉ khám phá ra những phương pháp khoa học để nghiên cứu vô thức mà thôi”.
Tóm lược bài nói chuyện trao đổi một số vấn đề về tình hình văn học Xô viết những năm 80, đặc biệt là sau Đại hội 27 của GSTS V. Xmirnốp trong chuyến thăm Huế với Chi hội Nhà văn Bình Trị Thiên của đoàn cán bộ Học viện văn học Gorki (Liên Xô cũ) do nhà thơ Valentin Xôrôkin, phó Giám đốc Học viện và GSTS Vladimia Xmirnốp đã sang Việt Nam giảng dạy tại trường Viết văn Nguyễn Du năm 1987.
Tỳ kheo THÍCH CHƠN THIỆN
Theo Spaulding - The “New Rationlism”, New York, Henry Holt and Conpany, 1918, pp. 106 - 107 -, Aristotle nêu lên ba nguyên lý cơ bản của tư duy:
TRẦN NGUYÊN HÀO
Năm 1987, tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn hóa của Liên hiệp quốc, UNESCO trong cuộc họp Đại hội đồng lần thứ 24 (tại Paris từ 20/10 đến 20/11) đã ra Nghị quyết phong tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh danh hiệu kép: “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn”.
ĐỖ HẢI NINH
Quan sát hành trình Thơ mới, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, vào đầu thập kỷ 40 của thế kỷ XX, Thơ mới bắt đầu có dấu hiệu chững lại, thậm chí khủng hoảng về cảm hứng và thi pháp.
JU. LOTMAN
Từ “biểu tượng” (symbol, còn được dịch là tượng trưng, biểu trưng, phù hiệu, kí hiệu) là một trong những từ nhiều nghĩa nhất trong hệ thống các khoa học về kí hiệu(1).
PHẠM TẤN HẦU
Trong bản tham luận về mảng thơ trên trang viết đầu tay của Tạp chí Sông Hương do anh Hoàng Dũng trình bày tôi thấy có chủ ý nói đến tính khuynh hướng. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được đặt ra một cách chặt chẽ, sâu sắc. Theo tôi, nếu hướng cuộc thảo luận đến một vấn đề như vậy chắc sẽ đem đến cho những người viết trẻ nhiều điều bổ ích hơn.
ĐỖ VĂN HIỂU
Tóm tắt
Trước tình trạng môi trường toàn cầu đang ngày một xấu đi, giữa thập niên 90 của thế kỷ 20 Phê bình sinh thái đã ra đời với sứ mệnh cao cả là phân tích chỉ ra căn nguyên văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái, nghiên cứu quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên.
LƯỜNG TÚ TUẤN
Việc lý luận văn học thống nhất coi “ngôn ngữ là chất liệu của văn học” đã không vì thế mà dành cho cái chất liệu ấy một vị trí xứng đáng trong những luận thuyết và “diễn giải” của mình.
PHAN TUẤN ANH
“Chẳng ai đi dưới bóng hàng cọ mà lại không hề hấn gì”… Ở đời, trong cuộc chơi, cả hai bên đều phải đi qua dưới bóng hàng cọ”.
(Nguyễn Xuân Khánh) [2,806]
TRẦN THIỆN KHANH
“Mai kia, những cái tầm thường, mực thước sẽ mất đi, còn lại chút gì đáng kể của thời này, đó là Hàn Mạc Tử.”
(Chế Lan Viên)
CARSON MCCULLERS
Khi tôi là một đứa bé chừng bốn tuổi, tôi cùng người bảo mẫu của mình đi ngang qua một tu viện.
MANU JOSEPH
Xét về quan điểm và màu tóc của 50 nhà văn được lắp ghép cho một hội nghị kì quặc ở Edinburgh, thì cái giáo đoàn đó có thể gọi là “50 Sắc Xám.” Tuy nhiên trong suốt năm ngày hội nghị, khởi đầu từ ngày 17 tháng Tám, hầu hết các nhà văn nhìn nhận rằng họ bị đẩy lui bởi loại sách kém học thức, loại sách bán chạy hơn tất cả các công trình của họ cộng lại.
NGUYỄN HỒNG TRÂN
…Minh triết là sự làm sáng tỏ một cách khôn khéo những chuyện trong trời đất có liên quan đến cuộc sống vật chất và tinh thần của con người trong xã hội một cách chân thực, rộng rãi, sâu sắc và nó có những năng lượng tiềm tàng rất quý giá đối với sự phát triển tâm đức và trí tuệ con người…
WALTER BENJAMIN
(Trích trong tác phẩm Illuminations do Hannah Arendt biên tập và đề tựa, 1968, bản dịch từ tiếng Đức của Harry Zohn)
NGUYỄN HỮU QUÝ
1.
Tôi luôn tin rằng các nhà thơ đích thực là những người rất lương thiện. Bởi ngọn bút của họ (bây giờ có thể là bàn phím) hướng về tình thương yêu và sự cao đẹp của con người.
ĐOÀN HUYỀN
Xuất hiện ở Việt Nam đã gần một thế kỉ, đến thời điểm này chủ nghĩa hiện thực tuy không còn giữ địa vị của một khuynh hướng sáng tác thống soái nhưng điều đó không có nghĩa những người cầm bút Việt Nam đã thực sự thoát khỏi từ trường của khuynh hướng sáng tác này.