Vị Hoàng đế đa tài và cũng rất đa tình Lê Thánh Tông có rất nhiều giai thoại được truyền tụng trong dân gian, trong số đó có cả những chuyện thú vị giữa vua và các giai nhân, nữ sắc. Không rõ có bao nhiêu điều trong đó là sự thật, bao nhiêu điều là do thêu dệt mà nên...
Thiếu nữ gánh nước (tranh minh họa)
... nhưng theo danh sách những người vợ chính của vua Lê Thánh Tông mà cuốn “Đại Việt thông sử” ghi chép thì tất cả đều là con gái các quan tướng trong triều, duy nhất có một người xuất thân bình dân và bà trở thành vợ vua cũng rất tình cờ.
Chiến thắng kép trên đường Nam chinh
Vào những năm đầu vua Lê Thánh Tông trị vì, Chiêm Thành thường cho quân theo đường bộ hoặc đi thuyền vượt biển tới cướp phá, quấy nhiễu châu Hóa. Để kết tình láng giềng giao hảo, giữ cho biên cương phía Nam được yên ổn, Lê Thánh Tông đã cho sứ thần sang thông hiếu nhưng vua Chiêm Thành không chấp thuận, ngược lại còn làm nhục sứ thần, tiếp tục cho quân xâm lấn đất đai.
Ngày mồng 6 tháng 11 năm Canh Dần, niên hiệu Hồng Đức năm thứ 1 (1470) Lê Thánh Tông xuống chiếu thân hành đi đánh Chiêm Thành. Sử chép rằng: “Trước đó, người Chiêm Thành ở Thi Nại Bàn La Trà Duyệt là con người vú nuôi, giết chúa hắn là Bí Điền mà cướp lấy nước, rồi truyền cho người em là Trà Toàn.
Trà Toàn là đứa hung bạo làm càn, dối thần ngược dân, người Chiêm mưu phản, Toàn cũng không nghĩ chi đến, lại còn ngạo mạn kiêu căng, không sửa lễ tiến cống, lăng nhục sứ thần của triều đình, quấy nhiễu dân biên giới. Lừa gạt người Minh để xin viện trợ mà sang ăn cướp. Vua bèn gọi 26 vạn tinh binh, xuống chiếu thân chinh” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Tờ chiếu của Lê Thánh Tông có đoạn viết: “Trẫm thể lòng thượng đế, nối chí vua cha. Giết kẻ thù chín đời theo nghĩa Xuân Thu, định mưu kế vạn toàn cho yên đất nước. Cứu muôn dân thoát khỏi vòng điêu đứng, dẹp nước loạn đã trái đạo lâu năm. Đánh phản nghịch, cứu sinh dân, thánh triết phải tỏ bày uy vũ; trồng mầm nhân, nhổ cội ác, đất trời cũng lấy đó làm lòng…
Ta đã chọn hàng loạt tướng tài, đã mộ vô vàn quân giỏi. Tỳ hổ vạn người, thuyền ghe ngàn dặm. Binh sĩ trăm lần dũng cảm, người người chỉ một quyết tâm. Ai cũng nắm tay đua nhau lên trước, tuân lệnh đợi lúc ra tay. Nguyện xin đắp cồn chôn xác giặc, mong cho sử sách mãi ghi công. Ra quân có danh nghĩa, phạm tội quyết không tha.
Trẫm chỉ huy cờ võ, hiệu lệnh binh thần. Kính đem mệnh lệnh của trời, làm việc đánh giết kẻ ác. Bóng cờ rợp đồng nội, như mây cuốn như gió bay; lưỡi búa loáng trên không, tựa nắng chang, tựa sao chói. Dễ dàng như bóc mo nang, thuận lợi như bẻ cành mục. Giặc tận mắt nhìn, sấm sét gấp bung tai nào kịp, quân đi trên chiếu, lửa bừng bừng vèo cháy mảy lông. Công một buổi sẽ hoàn thành, hận trăm đời sẽ rửa sạch. Lại vì dân trừ loài sâu độc, chẳng để giặc cho con cháu đời sau”.
Sau khi ban chiếu, thủy quân gồm 10 vạn lính do tướng Đinh Liệt và Lê Niệm chỉ huy xuất quân đi trước, vua thân hành dẫn đại quân tiến tiếp sau. Tháng giêng năm Tân Mão (1471) đại quân đánh vào đất Chiêm, tướng Bồng Nga Sa là viên quan giữ cửa quan Cụ Đê nước Chiêm bị bắt sống. Bắt đầu tháng 2, sau khi đánh bại toán quân của em trai vua Chiêm, Lê Thánh Tông đã cho một cánh quân với hơn 500 chiếc thuyền, 3 vạn tinh binh vượt biển, bí mật tiến vào cửa biển Sa Kỳ để ngăn chặn lối về của quân đối phương.
Tiếp đó vua tự mình dẫn hơn 1.000 chiếc thuyền, hơn 70 vạn quân dựng cờ thiên tử, đánh trống hò reo mà tiến; trên bộ, các cánh quân khác cũng đồng loạt công kích nhiều đồn trại, thành lũy bị hạ như thành Thi Nại, còn kinh đô Chà Bàn bị vây chặt mấy vòng.
Ngày mồng 1 tháng 3 hạ được thành Chà Bàn, bắt sống vua Chiêm là Trà Toàn cùng hơn 3 vạn người, Lê Thánh Tông ra lệnh “tất cả kho tàng, của cải trong thành đều phải niêm phong giữ kín, không được đốt cháy”. Phần đất phía bắc nước Chiêm là hai châu Thái Chiêm và Cổ Luỹ, xưa vốn thuộc nước Việt được lấy lại đặt làm thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Sau khi Trà Toàn bị bắt, tướng của hắn là Bô Trì Trì chạy đến Phiên Lung, chiếm cứ đất ấy, xưng là chúa Chiêm Thành, Trì Trì lấy được 1 phần 5 đất của nước Chiêm, sai sứ sang xưng thần, nộp cống, được phong làm vương. Vua lại phong vương cho cả Hoa Anh và Nam Bàn gồm 3 nước để dễ ràng buộc.
Ngày mồng 7, lấy người Chiêm đầu hàng là Ba Thái làm Đồng tri châu Thái Chiêm, Ba Thủy làm Thiêm tri châu. Vua dụ họ rằng: "Hai châu Thái Chiêm và Cổ Luỹ trước là đất của ta, đời gần đây bị mất về nước Chiêm, nay lấy lại được hết, đặc cách sai bọn các ngươi trấn giữ. Có kẻ nào không chịu theo, cho giết trước rồi tâu sau". Ngày 11, lấy Đỗ Tử Quý làm Đồng tri châu tri Thái Chiêm quân dân sự, Lễ Đà làm cố Lũy châu tri châu tri quân dân”. Chuyện kể rằng sau chiến thắng này, dân gian vùng Hóa Châu truyền cho nhau nghe câu ca:
Hóa Châu thắng được Chiêm Thành
Không bằng thắng được mắt xanh cô nàng.
Nếu như chiến thắng Chiêm Thành được sử sách ghi lại rõ ràng thì “chiến thắng” thứ hai của Lê Thánh Tông trong tình yêu chỉ được nhắc đến ngắn gọn, sơ lược, còn dã sử cũng chỉ cho biết thêm đôi chút tình tiết thú vị. Người con gái xinh đẹp đất Hóa Châu đã khiến vị hoàng đế kiệt xuất trong lịch sử phong kiến Việt Nam say đắm đó mang họ Nguyễn (không rõ tên), quê ở xã Hòa Thước (Thược), huyện Kim Trà, phủ Triệu Phong (nay thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên –Huế). Điều lý thú đây mới chính là “chiến thắng” đầu tiên của Lê Thánh Tông trên đường Nam chinh.
Chuyện kể rằng khi Lê Thánh Tông chỉ huy đại quân phạt Chiêm, đến đất Thuận Hóa, ông truyền cho dừng lại đóng quân ở xã Hòa Thước để nghỉ ngơi, thao diễn quân sự trước khi bắt đầu cuộc chiến; một hôm đứng trên vọng lâu quân doanh, ông thấy có một cô gái gánh nước đi qua, tuy mặc bộ quần áo nâu lam lũ nhưng vẫn không dấu được khuôn mặt xinh đẹp, thân hình kiều diễm đầy vẻ hấp dẫn ở độ tuổi trăng tròn lộng lẫy.
Bỗng cảm thấy tâm hồn xao động, Lê Thánh Tông cho truyền gọi cô gái vào hỏi chuyện; trước hoàng đế uy nghi và các văn thần tướng võ đông đảo, cờ quạt rực rỡ, gươm giáo sáng lòa nhưng cô gái trẻ không hề e sợ mà vẫn giữ phong thái tự tin, ứng đáp linh hoạt thông minh; thậm chí cô còn ra một câu đối khiến tả hữu quanh vua, trong đó có người từng đỗ khoa bảng cao, không ai đối lại được: “Gái Hòa Thước gồng nước pha trà, chanh từng chén”.
Nghe xong Lê Thánh Tông rất thích thú, ông không ngờ rằng cô gái trẻ ở chốn quê mùa đó lại có tài văn thơ giỏi đến vậy vì thế càng say mê hơn, vua quyết định đón nàng theo đoàn quân, rồi sau chiến thắng thì ca khúc khải hoàn đưa về Thăng Long làm phi tần, dần dần cô gái ấy được phong đến bậc Qúy phi, một bậc phi tôn quý ở hàng cao cấp trong hậu cung, chỉ xếp sau Hoàng hậu mà thôi. Dân gian đời sau có câu ca nói về chuyện này như sau:
“Hỡi cô gánh nước bên đàng,
Làm sao cô để mơ màng quân vương”.
Sách Đại Việt thông sử cũng có đoạn cho biết về duyên kỳ ngộ giữa hai người như sau: “Bà là người xã Hòa Thược, huyện Kim Trà. Khi vua Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành dừng lại ở xã này, thấy bà gánh nước qua, có nhan sắc, vua đem lòng yêu bèn cho vào cung, được nhà vua quý mến. Lần lần phong đến bậc phi, về sau sinh ra Triệu Vương”.
Vì yêu mẹ mà xử nhẹ cho con
Là người coi trọng pháp luật, nhận thấy vai trò quan trọng của pháp luật trong xây dựng bộ máy nhà nước, quản lý trật tự xã hội nên Lê Thánh Tông rất chú trọng hoạt động lập pháp và xây dựng điển chế, ông từng nói với triều thần rằng: “Pháp luật là phép công của nhà nước, ta cùng các ngươi đều phải tuân theo, các ngươi nên nhớ lấy” và nhắc nhở quân dân cả nước: “Đặt luật để trừ kẻ gian, sao dung được bọn coi thường pháp luật” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Ấy vậy mà có trường hợp phạm tội nhưng hoàng đế Lê Thánh Tông đã bỏ qua cho thủ phạm, đây có thể nói là một trong số những hạn chế hiếm hoi của ông và nguyên do cũng xuất phát từ tình yêu, sự quý trọng người vợ họ Nguyễn quê ở Thuận Hóa.
Kể từ khi vào cung, qua thời gian chung sống, nhận được sự sủng ái của vua, Nguyễn Qúy Phi đã sinh được mấy người con, trong số những người con do bà sinh hạ, chỉ có một con trai tên là Lê Thoan, đây là hoàng tử thứ 13 của Lê Thánh Tông, được vua phong cho tước Triệu Vương, một người khí khái và can đảm.
Chúng ta cũng nên biết rằng tình trạng chèn ép, đố kị, phân biệt vùng miền không chỉ mới xảy ra trong thời gian gần đây mà tệ phân biệt, kỳ thị đã có từ trước đó khá lâu, ít nhiều ảnh hưởng đến tình cảm, sự đoàn kết trong dân chúng và cho làm hoạt động quản lý, điều hành đất nước gặp cản trở, kém hiệu quả.
Câu chuyện về Triệu vương Lê Thoan, con trai của Nguyễn Qúy Phi có liên quan đến mối tệ hại này. Sách Đại Việt thông sử cho hay: “Triệu Vương Thoan là con thứ 13 của vua Thánh Tông. Mẹ là người xã Hoà Thược, huyện Kim Trà. Vương từ nhỏ đã thông minh quả cảm.
Có người ở quê mẹ ông tới kinh làm việc, đi đến ngoài cửa Đại Hưng, một viên tiểu hoàng môn vừa đi đến thấy người ấy áo quần lam lũ, lại tranh đường, bèn hỏi rằng “Mày ở đâu?”. Người ấy đáp: “Ở Thuận Hoá”. Viên hoàng môn ấy mắng rằng: “Loại sâu bọ này lại dám vô lễ à?”. Lúc ấy Vương từ chỗ cửa cung cấm đi ra, nghe thấy thế, chợt nổi cơn giận, lấy gậy đánh chết viên ấy.
Rồi ông đi tắt vào tâu vua rằng: “Tôi là con thiên tử, mẹ tôi người Thuận Hoá. Viên tiểu hoàng môn nói phạm đến tôi, tôi không nén được cơn giận, trót đã giết mất nó rồi. Như thế là đã mắc tội tự tiện giết người, xin nạp tiền để đền mạng nó”. Nhà vua thương hại tấm lòng của ông, lại cho là có nghĩa khí, cuối cùng không bắt tội”.
Như vậy là Triệu vương Lê Thoan sau khi nghe câu nói coi thường người dân ở nơi khác, nhất là có thái độ khinh thường, hỗn xược nên trong một phút nóng giận ông đã phạm tội giết người. Điều ngạc nhiên là với với hành vi có tính chất đặc biệt nghiêm trọng đó, Lê Thánh Tông lại không bắt tội cho con trai, ngược lại ông cho rằng động cơ phạm tội của Triệu vương cũng có cái lý và một phần sâu xa khác, lời nói phạm đến dân Thuận Hóa cũng chính là phạm đến danh dự người vợ yêu của ông.
Lại nói về Nguyễn Qúy Phi, nếu như so với các phi tần khác của Lê Thánh Tông hầu hết là con cháu quan chức, được tuyển vào cung ít nhiều với mục đích chính trị, có sự sắp xếp mang lại lợi ích cho phe cánh, dòng họ thì cô gái đến từ Thuận Hóa chỉ là người xuất thân từ tầng lớp áo vải bình dân, ở vùng biên cương phía Nam xa xôi.
Cô gái đó trở thành vợ vua, nhập cung không phải có ai đó có quyền thế nâng đỡ, cũng không phải qua kỳ tuyển chọn mỹ nữ mà qua sự tình cờ “như duyên trời định trước”; đó chính là điểm đặc biệt duy nhất khiến bà trở thành người đặc biệt nhất trong số những bà vợ của ông “vua Thánh”, người được ví như: “Mặt trời soi tỏ giữa tầng không/Sự nghiệp minh quân tiếng lẫy lừng”.
Theo SBĐ
Sáng 16/5, tại Trung tâm Văn hoá Phật giáo Liễu Quán Huế, Ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức khai mạc Tuần văn hóa Phật giáo, hưởng ứng Ðại lễ Phật đản - Phật lịch 2554, hướng đến Fetival Huế 2010 và kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Chiều ngày 13/5, tại Phủ Tùng Thiện Vương, số 91 Phan Đình Phùng, Huế, Hội đồng gia tộc Phủ Tùng Thiện Vương phối hợp với Hội Liên hiệp VHNT Thừa Thiên Huế long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 140 năm ngày mất của một nhà thơ tài hoa Tùng Thiện Vương - Nguyễn Phúc Miên Thẩm (1870-2010).
Sáng ngày 1/5, tại tại bến đò Cồn Tộc, xã Quảng Lợi, Quảng Điền, Thừa Thiên Huế, UBND huyện Quảng Điền đã tổ chức lễ hội Sóng nước Tam Giang lần đầu tiên, diễn ra trong hai ngày 01- 02/5/2010.
Ngày 28/4, Hội Đô thành hiếu cổ tại Pháp (AAVH) phối hợp với Trung tâm Hợp tác quốc tế và Nhà tri thức TP Huế đã tổ chức triển lãm ảnh với chủ đề “Nghi lễ hoàng cung và lễ hội ở Huế vào đầu thế kỷ XX”, được diễn ra tại Trung tâm Văn hóa Pháp tại Huế.
Đó là chủ đề đêm thơ được Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, Phòng VHTT huyện Quảng Điền phối hợp tổ chức, diễn ra vào tối ngày 27/4, tại Trung tâm Văn hóa huyện. Đây là hoạt động hưởng ứng Lễ hội Sóng Nước Tam Giang lần đầu tiên được tổ chức tại Quảng Điền vào ngày 1-2/5 sắp đến và hướng đến Festival Huế 2010.
Sáng ngày 24/2, tại cuộc gặp mặt các doanh nghiệp du lịch và lữ hành, ông Ngô Hòa- Phó chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, Trưởng Ban tổ chức Festival đã công bố địa điểm và chính sách giá vé cho khách trong nước và quốc tế khi vào xem các chương trình nghệ thuật tại Festival Huế 2010.
Đó là chuyến hành trình do Hội Liên hiệp VHNT Thừa Thiên Huế và Tạp chí Sông Hương tổ chức vào ngày 12/4 vừa qua theo lời mời của Hội VHNT Phú Thọ, đây là hoạt động nằm trong chương trình hướng về 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, chào mừng Quốc lễ Giỗ Tổ Hùng Vương (10/3 âm lịch).
Tối ngày 8/4 (ngày 24/2 năm Canh Dần), tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức lễ tế Xã Tắc năm 2010 tại đàn Xã Tắc, phường Thuận Hòa, thành phố Huế, Lễ tế được thực hiện trang nghiêm với đầy đủ các nghi thức truyền thống.
Ngày hội “Sóng nước Tam Giang” được UBND huyện Quảng Điền tổ chức lần đầu tiên sẽ diễn ra trong hai ngày 01- 02/5/2010, tại bến đò Cồn Tộc, xã Quảng Lợi, Quảng Điền, Thừa Thiên Huế, với nhiều hoạt động văn hóa, thể thao, nghệ thuật phong phú, đa dạng mang đậm dấu ấn của vùng quê sông nước.
Chiều ngày 30/3, tại Tạp chí Sông Hương, số 9 Phạm Hồng Thái, Huế, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Sở Thông tin và Truyền thông, Hội Nhà báo tỉnh Thừa Thiên Huế đã phối hợp tổ chức Hội nghị giao ban báo chí quý I/2010.
Sáng ngày 26/3, tại quảng trường Ngọ Môn, tỉnh Thừa Thiên Huế đã long trọng tổ chức Lễ mittinh kỷ niệm 35 năm ngày quê hương hoàn toàn giải phóng (26/3/1975- 26/3/2010).
Chào mừng kỷ niệm 35 năm Ngày giải phóng Thừa Thiên Huế (26/3/1975- 26/3/2010) và 50 năm kết nghĩa Hà Nội- Huế- Sài Gòn (1960- 2010), Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thừa Thiên Huế phối hợp với Sở VHTT&DL Hà Nội, Sở VHTT&DL TP Hồ Chí Minh khai mạc triển lãm ảnh chủ đề “ Hà Nội- Huế- Sài Gòn là cây một cội, là con một nhà”, được diễn ra vào sáng ngày 24/3, tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, số 7 Lê Lợi, Huế.
Sáng ngày 23/3, Tạp chí Sông Hương đã tổ chức buổi ra mắt giới thiệu Sông Hương số đặc biệt chào mừng 35 năm giải phóng Thừa Thiên Huế và kỷ niệm 50 năm “Hà Nội - Huế - Sài Gòn như cây một cội, như con một nhà”.
Nhân dịp kỷ niệm 35 năm Ngày giải phóng quê hương Thừa Thiên Huế (26/3/1975-26/3/2010) và 50 năm kết nghĩa Hà Nội - Huế - Sài Gòn, sáng ngày 21/3, tại nghĩa trang liệt sĩ TP Huế, Ban điều hành Đại lễ cầu siêu tỉnh Thừa Thiên Huế đã long trọng tổ chức Đại lễ cầu siêu, tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Mời các bạn đón đọc SỐ ĐẶC BIỆT SÔNG HƯƠNG, một ấn phẩm mới của Tạp chí Sông Hương, khổ 20x30, dày 48 trang, phát hành từ ngày 23.3.2010 trong cả nước.
Chiều 14-3, đã diễn ra triển lãm mỹ thuật chủ đề “... Trên bố” tại gallery Chiêu Ê, số 89 đường Minh Mạng, TP Huế, đây cũng là xưởng vẽ của họa sỹ Hoàng Đăng Nhuận.
Sáng ngày 14/3, Hội nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, Hội Nhiếp ảnh Thừa Thiên Huế và UBND huyện Hương Trà đã long trọng tổ chức lễ dâng hương tưởng niệm danh nhân Đặng Huy Trứ tại nhà thờ họ Đặng, làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật và Hội Nhiếp ảnh tỉnh Thừa Thiên Huế vừa phối hợp với Ủy ban nhân dân huyện Quảng Điền tổ chức Trại sáng tác nhiếp ảnh 2010 với chủ đề ảnh Thời sự nghệ thuật
Chào mừng kỷ niệm 1970 năm khởi nghĩa Hai Bà Trưng, 100 năm ngày Quốc tế Phụ nữ, chiều ngày 5/3, tại 26 Lê Lợi, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Liên hiệp VHNT Thừa Thiên Huế, Trường Đại học Nghệ thuật Huế đã phối hợp tổ chức khai mạc triển lãm tranh “ Các Nữ tác giả Thừa Thiên Huế lần thứ XV- 2010”.
Tối ngày 28/2 (Rằm tháng Giêng), tại sân Điện Thái Hòa, Đại Nội Huế đã diễn ra đêm thơ Nguyên Tiêu với chủ đề “ Cố đô Huế hướng về Thăng Long- Hà Nội ngàn năm”.