Mở đường về Nam

16:41 24/02/2009
HUỲNH KIM PHONG(Chào mừng kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền , thống nhất đất nước 30.4.1975 - 30.4.2005)

Sau buổi lễ bế giảng khoá học, đồng chí Hiệu trưởng Thượng tá Nguyễn Khang trường sĩ quan công binh mời số anh em học viên miền Nam ở lại để tâm sự và dặn dò: “...Trước giờ các đồng chí lên đường về miền Nam chiến đấu tôi tha thiết nhắc lại: kẻ thù rất thâm độc và xảo quyệt... các đồng chí hãy luôn luôn cảnh giác, đề phòng cạm bẫy, rất thận trọng trong khi tháo, gỡ bom mìn, luôn nhớ là không bao giờ có được sai lầm lần thứ hai. Chúc các đồng chí mạnh khoẻ, lên đường giải phóng miền , chiến đấu thắng lợi!”.

Mùa khô năm 1966 mở đoạn đường B68 là đoạn đường rẽ từ đường mòn Hồ Chí Minh nối đến Tà Lương. Đoạn đường từ Tà Lương với Huế trước kia Ngô Đình Diệm đã làm để tiến đánh ra miền Bắc Việt Nam.
Giữa núi rừng Trường Sơn trùng điệp xuất hiện con đường rộng thênh thang tiếp giáp với Tà Lương. Bọn Mỹ Thiệu dự đoán kế hoạch chi viện của ta. Đêm dùng máy bay B52 rải bom, ngày loại thần Sấm, con ma rải bom và bắn phá rất ác liệt.
Sáng sau, máy bay trinh sát Mỹ thấy vết bánh xe ta hoạt động, Mỹ liền rải chất độc hủy diệt màu xanh lá cây để dễ thấy những đoạn xung yếu đánh phá hiệu quả hơn, song sự chi viện cho chiến trường không hề ngưng trệ.
Năm giờ sáng ngày sau, Mỹ đổ bộ quân xuống đoạn đầu đường B68 gài nhiều loại mìn và các loại vũ khí nguy hiểm giết người dài vài trăm mét. Mười giờ bọn Mỹ cút xéo!
Đơn vị tôi C1 - D4 - Binh trạm 42 - Đoàn 559 nhận nhiệm vụ quét sạch mìn. Trong đại đội hầu hết anh em người Hà Bắc, chỉ riêng tôi là dân Nha Trang và đã học trường Công binh.
Tôi được phân công đi trinh sát cùng ba chiến sĩ tìm Mỹ gài mìn bằng mắt thường, may sao trời không mưa nên những nơi Mỹ gài mìn đều dễ phát hiện.

Tôi đi trước và mỗi người cách nhau mười mét. Mới đi vài chục bước thấy ba sợi chỉ màu xanh lá cây giăng ra ba hướng. Tôi biết đó là mìn râu tôm. Vướng dây chỉ ấy hoặc dẫm lên ba râu là mìn nổ. Quan sát thật kỹ: cắt dây chỉ, rồi đến quả mìn, gài chốt an toàn, tôi định giở mìn lên. Song nhớ lời đồng chí Hiệu trưởng Nguyễn Khang, tôi cột dây quả mìn và lùi lại cùng đồng chí chiến sĩ kề tôi, tìm nơi ẩn nấp. Tôi kéo dây, mìn nổ vang cả núi rừng. Hai chiến sĩ phía sau chạy tới liền hỏi: “Sao mìn nổ vậy thủ trưởng? “Tôi cười khì, và nói: “Bọn Mỹ xảo quyệt thật! Đã gài mìn còn gài bẫy bí hiểm nữa, nếu không cảnh giác thì mình đã kết duyên với tử thần rồi!” Nghe mìn nổ, đơn vị mang cả cáng thương chạy đến, đồng chí chính trị viên ngỡ ngàng hỏi: “Mìn nổ mà các đồng chí vẫn bình thường vậy sao?” Một chiến sĩ nhanh nhảu trả lời: “Thủ trưởng đang nghiên cứu phá bẫy gài mìn của Mỹ đấy!” Đồng chí chính trị viên như người chị hiền trầm ngâm lo lắng cho chúng tôi, nói: “Các đồng chí về nhà nghỉ ngơi và rút kinh nghiệm, sau đó ta tiếp tục!” Tôi hiểu ý và đề nghị cho chúng tôi được tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ sớm nhất. Từ chỗ mìn đã nổ, bước vài bước thấy giữa vệt bánh xe có đất mới. Bới đất thì đây là loại M11 để chống xe cơ giới và xe tăng. Đề phòng Mỹ gài bẫy, đào đất quanh quả mìn chẳng thấy gì, giữ chặt quả mìn, đào đất dưới đáy quả mìn rờ gặp ngòi nổ phụ hình khối trụ đường kính 2cm, dài 3cm gài chốt an toàn ngòi nổ chính và phụ rồi cột dây vào mìn M11, tìm nơi ẩn nấp. Tôi hô: Kéo! Ba chiến sĩ giật mạnh dây, quả mìn bật tung lên an toàn. Nét mặt các chiến sĩ rạng rỡ nụ cười sung sướng. Riêng tôi lại lầm lì đi tìm gỡ một quả mìn râu tôm khác để về huấn luyện cho đơn vị.

Sớm tinh mơ, sương mù dày đặc, khí hậu mát mẻ, chim chóc hát vang vui tai. Đứng trước hàng ngũ chỉnh tề với những gương mặt anh hùng của các chiến sĩ, tôi mạnh dạn nghiêm nghị, nói: “Nhiệm vụ gỡ mìn rất nguy hiểm đến tính mạng, đồng chí nào cảm thấy không nắm chắc các động tác gỡ mìn thì được tự nguyện bước ra khỏi hàng!”. Sau vài phút im lặng, chẳng có chiến sĩ nào bước ra khỏi hàng cả. Tôi liếc nhìn đồng chí chính trị viên nét mặt rạng rỡ, vui mừng, xúc động nghẹn ngào và chứa đầy niềm tự hào với chiến sĩ của đơn vị. Tôi nói tiếp: “Đi gỡ mìn là cảm tử quân âm thầm lặng lẽ! Mất cảnh giác và sơ suất chỉ một lần là hy sinh! Chiến sĩ công binh tháo, gỡ bom, mìn nên ghi lòng tạc dạ!
Đơn vị đã gỡ cả trăm quả mìn.
Mặt trời đã xế bóng, đồng chí Trần Minh Thông trung đội trưởng B1 chạy đến: “Báo cáo thủ trưởng! B1 gặp bãi mìn quái lạ lắm. Tôi đã cho anh em dừng lại và tìm nơi ẩn nấp, xin ý kiến thủ trưởng!”.

Bãi mìn dày đặc kỳ quái trên đoạn đường cong hiểm trở, dây chỉ xanh lá cây, dây nổ màu đỏ giăng chằng chịt đất đỏ mới khắp mặt đường và lên trên sườn đồi. Nhìn bãi mìn mà lòng tôi cảm thấy ngao ngán và rùng mình. Một cảm giác so đo tính toán trong đầu tôi. Anh em miền Bắc vì quê hương miền sẵn sàng xả thân, còn tôi là dân miền , là thủ trưởng đơn vị mà lại chần chừ sự hy sinh này sao!
Tôi lầm lì và hết sức thận trọng từng bước đi, từng động tác, nhìn nhận chính xác và phân tích kỹ mưu mẹo của kẻ thù. Trời nắng, nóng rực, cả đơn vị hầu như nín thở theo dõi tôi hoá giải các bẫy mìn từ mặt đường lên đến đồi dốc cao hơn mười mét, rải dài hơn hai mươi mét: 4 quả mìn M11, 8 quả mìn râu tôm, 4 quả mìn M34 (loại này giống quả lựu đạn to; nặng 5 kg), 4 quả bom cháy Phospho (dài 1m20, đường kính 25cm) 4 bao chất độc hoá học đã bị chọc thủng: mùi rất hôi, bị hít vào phổi,  ngực đau tức như muốn ngừng thở; mắt cay xè, nước mắt chảy ròng ròng nhức nhối rất khó chịu.
Bãi mìn và các loại vũ khí giết người đều có gài bẫy phụ, có dây nổ liên kết nhau, hễ nổ một nơi là toàn bộ đồng loạt nổ hết luôn.
Đơn vị hoàn thành nhiệm vụ mất 2 ngày và có 3 chiến sĩ gỡ mìn anh dũng hy sinh.

Sau 3 ngày Mỹ vẫn thấy vết xe ta lăn bánh, chúng rải bom trên tuyến đường B68. Thấy bom rơi mà chẳng nghe nổ quả nào. Trinh sát về báo cáo: các nơi thả bom đều thấy cả bom từ trường, bom nổ chậm lẫn lộn. Mỹ chơi xỏ thâm độc, gây rất nhiều sự khắc phục cho ta. Phá bom dù là loại gì thì cũng đơn giản thôi, song phá bom mà ảnh hưởng đến sự tiếp viện chậm trễ cho chiến trường là có tội với dân, đơn vị phải cân nhắc tính toán kỹ lưỡng. Tổ trinh sát cuối cùng về báo cáo có một quả bom nổ chậm nằm ngay sát mố cầu. Phá bom thì hư cầu, ít ra phải mất 2, 3 đêm không trông xe được và mất rất nhiều công sức và vật liệu. Ban chỉ huy quyết định đào lên, lăn bom xuống vực. Đồng chí Lê Tấn Bình trung đội trưởng B2 và ba chiến sĩ tưởng đấy là bom nổ chậm, sẵn có xẻng sắt, đào đất nhanh tay và đều sinh ra cảm ứng từ trường. Bom nổ. Bốn đồng chí hy sinh chỉ nhặt được vài miếng thịt rơi xuống mặt đường cạnh góc thành ta luy.
Đây có thể là loại bom kết hợp vừa mang tính từ trường và nổ chậm. Chúng tôi không lường hết nổi sự thâm độc của bọn Mỹ. Nếu chúng tôi nhạy bén cảnh giác đào đất bằng xẻng đồng thì chưa chắc đã xảy ra sự mất mát đau thương này. Một bài học hết sức đau đớn và cay đắng bằng xương máu của đồng đội, đồng chí!

Hai ngày sau máy bay trinh sát Mỹ vẫn thấy vết xe ô tô lăn bánh. Một giờ đêm máy bay B52 rải bom hai lượt và năm giờ sáng máy bay FA và F105 thay phiên nhau nhiều lượt rải bom và bắn phá liên tục đến mười một giờ trưa.
Ngớt tiếng máy bay, để trinh sát về báo cáo có một quả bom nổ chậm nằm ở góc cùi chỏ có độ dốc cao. Nếu phá bom thì đêm nay xe không qua được. Nếu không phá bom thì lái xe không dám đưa xe qua. Ban chỉ huy đại đội quyết tâm đào bom lên. Đào đất bằng xẻng đồng an toàn. Anh em đã đào lên và báo cáo không phải bom từ trường mà cũng không phải là bom nổ chậm. Tôi ra xem, đây là một bom đặc biệt chống tháo đầu ngòi nổ. Anh em định lăn xuống vực. Tôi ngăn lại và suy nghĩ: nếu tôi không tháo đầu ngòi nổ ra thì hậu quả sau này sẽ có vài người chết. Bộ đội hoặc đồng bào dân tộc thiểu số không biết phương pháp tháo đầu ngòi nổ ra. Tháo ngòi đầu nổ quả bom chống tháo như tháo bình thường thì bom nổ tức thì. Tôi xin tình nguyện tháo đầu ngòi nổ. Hoan chính trị viên đang trầm ngâm suy nghĩ chưa dám trả lời thì đồng chí Ứng Công Minh phó chính trị hỏi: “Anh có bảo đảm an toàn không?. “Tôi thản nhiên: “Tôi biết khả năng của mình, mong hai đồng chí yên tâm!”.

Đồng chí Võ Văn Mạnh trung đội trưởng đẹp trai lực lưỡng luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ khó khăn nhất và trong cuộc sống rất tế nhị, bất giác hỏi tôi: “Tháo ngòi nổ bom có gì mà thủ trưởng cẩn thận đến thế”. Tôi xuề xoà nói: “loại bom này hơi khó tính, mình cảnh giác và chiều chuộng một chút cho an toàn chứ có sao đâu!”. Tôi không dám nói sự thật những gì đem đến sự nguy hiểm đến tính mạng mình và đồng đội.
Đặc điểm khi tháo ngòi đầu nổ bom chống tháo là lăn và lắc mạnh để làm sao hòn bi luôn luôn nằm dưới đáy quả bom xoắn theo vòng xoáy, tay nắm đầu ngòi nổ phải nhạy bén và giữ chính xác từng động tác, đầu ngòi nổ dần dần được tháo ra. Nếu để hòn bi leo lên và kẹt lại là bom nổ. Sau ba mươi phút lao động nguy hiểm, tôi thở phào nhẹ nhõm. Đồng chí chiến sĩ trẻ Hà Sinh da ngăm đen, cơ bắp cuồn cuộn nổi lên khoẻ khoắn nhe răng cười, rồi thắc mắc: “Bom gì mà quái gở thế! “Tôi phân giải: “Loại bom này, Mỹ chế tạo, nếu ai dám tháo đầu ngòi nổ là phải chết ngay tức khắc! Gọi là bom chống tháo đầu ngòi nổ, nhưng ba anh em chúng ta đã tháo ngòi đầu nổ ra rồi mà vẫn ung dung tán phét đấy thôi!” Anh em lè lưỡi ngao ngán và rùng mình.

Với lòng yêu quê hương miền Nam ruột thịt là bộ đội cụ Hồ, là em thân thương của người anh cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi chiến đấu như những cảm tử quân, chỉ có quyết thắng và coi sự hy sinh cá nhân mình cho Tổ quốc nhẹ nhàng, bình thản như những nông dân bình thản cày cuốc ra đồng ruộng lao động vậy thôi!
H.K.P

(nguồn: TCSH số 194 - 04 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HOÀNG QUỐC HẢI                        Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.

  • JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).

  • PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.

  • PHẠM THỊ CÚC                       KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                        Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.

  • THÁI VŨ        Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.

  • PHƯƠNG HÀ                     (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.

  • LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.

  • PHẠM THỊ CÚC                         Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…

  • LÊ VĨNH THÁI                Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.

  • TRƯƠNG ĐÌNH MINH                                 Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                              Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.

  • TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.

  • PHẠM THỊ ANH NGA       Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.

  • TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.

  • CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...

  • NGUYỄN HỮU THÔNG                             Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG                                                Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)

  • PHAN TÂM        (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.