Kinh thành Huế - Ảnh: internet
Sáng hôm qua, người ta báo cho chúng tôi biết là sẽ gởi đến một chiếc thuyền được sửa soạn tử tế để đưa chúng tôi đi thăm bất cứ khu vực nào của Minh Mạng mà chúng tôi muốn và sẽ có cả các quan viên người Pháp đi theo nữa. Thật vậy, vào lúc 3 giờ, các ông Chaigneau và Vannier đến gặp chúng tôi và nói rằng hai ông thừa lệnh nhà vua đến hướng dẫn chúng tôi đi thăm Kinh thành và trình bày các công tác kiến trúc cho chúng tôi biết. Chúng tôi đi ngược dòng sông (sông Hương) và ghé vào ở bờ phía Tây Kinh thành nơi đây đã có một vị quan Nam Hà (Cochinchine) đang đợi để đón tiếp chúng tôi. Kinh thành có hình tứ giác nầy bị cô lập hoàn toàn do một con kênh (Hồ thành hà) rộng từ 27m,42 đến 30m,56, mỗi mặt đo được 2.299m,82. Chính vị vua vừa qua đời (Gia Long) đã tự tay ông vẽ họa đồ dựa theo lời chỉ dẫn của các viên sĩ quan Pháp cộng tác với ông; nhưng khi khởi sự các công tác kiến trúc Kinh thành vào năm 1805 thì ông không còn có sự giúp đỡ của họ nữa (như Oliver de Puynanel, Mgr d’Adran). Con người đáng chú ý ấy cho chúng ta thấy rằng ông không tầm thường trong lãnh vực quân sự của người Âu vì công cuộc xây cất, như chúng tôi thấy, đều được hoạch định và thực hiện theo những nguyên tắc của kỹ thuật xây thành trì, và vật liệu kiến trúc cũng như công trình xây dựng đều không thua sút hơn họa đồ tí nào cả. Kinh thành có một thành giai (Glacis) đều đặn và đẹp đẽ trải ra từ bờ sông hoặc từ bờ kênh cho đến hào; có một con đường ngầm (chemin couvert) chạy bao bọc kinh thành và một cái hào bao quanh rộng 27m42, nước sâu từ 1m299 đến 1m624. Thành đắp bằng đất được nện chặt và xây gạch ở hai mặt trong ngoài. Mỗi góc thành có bốn pháo đài phòng vệ, mỗi pháo đài thiết trí 36 khẩu đại bác, một số đặt ở pháo nhãn, một số đặt ở nền cao. Mỗi mặt thành có bốn cửa (tác giả nhầm, ba mặt hậu, tả, hữu, mỗi mặt thành chỉ có hai cửa mà thôi) như hình một cái vòm được xây chắc chắn. Trước mỗi cửa đều có một chiếc cầu xinh xắn xây bằng đá bắc ngang qua hào. Trong thành nội, có nhiều đường đá đều đặn và rộng rãi chạy thẳng góc với nhau. Một con kênh nhỏ hẹp và xinh xắn nối liền con sông với kinh thành và khi vào trong thành thì con kênh đó rẽ ra thành nhiều nhánh khác nhau để dẫn đến Hoàng cung, xưởng đúc súng, các vựa lúa, và những cơ sở khác. Nhờ con kênh này mà thuế má và phẩm vật của các tỉnh chở tới có thể đến ngay ở cửa Hoàng Cung và các kho tàng. Hoàng Cung tọa lạc bên trong kinh thành và được hai lớp thành khác bao bọc.
Chúng tôi không được mời vào bên trong Hoàng thành, nhưng đứng bên ngoài nhìn vào cũng có thể thấy được các mái màu vàng của Hoàng cung và một ngôi điện xinh xắn để thờ các tiên vương. Ngôi điện nầy không có tăng ni tư tế gì ở, đó là nơi thờ phụng độc nhất ở bên trong Kinh thành. Trên khắp diện tích của Kinh thành rộng lớn này, thật khó mà kiếm ra được những khiếm khuyết thô sơ lạc hậu. Có lẽ chỉ có những mái cong làm theo kiểu Tàu mang hình dạng những chiếc dù che trên các cửa thành và những pháo nhãn của một vài pháo đài vừa mới được xây cất xong dưới triều vua Minh Mạng là có sự biểu lộ nghèo nàn của nghệ thuật kiến trúc mà chính nhà vua cũng đã muốn áp dụng nguyên tắc khoa học hợp lý khi ông buộc phải sửa lại các pháo nhãn xiên vào bên trong thay vì trở ra phía ngoài. Bờ sông và bờ kênh tạo nên đáy thành giai không những chỉ nghiêng đều theo một chiều dốc nhè nhẹ giống nhau ở khắp nơi mà những nơi nào công tác đã hoàn thành - vì có những chỗ chưa xây cất xong - thì bờ sông hoặc bờ kênh đó được chặt bằng một lớp hồ chắc chắn phủ lên trên. Con kênh ở thành nội cũng được xây một cách hoàn toàn khéo léo và các chiếc cầu bắc ngang qua kênh không những chỉ có lan can xinh đẹp xây bằng đá, mà khắp mặt cầu con được lát cẩm thạch đem từ Bắc kỳ vào. Vật ở trong Kinh thành hấp dẫn tính tò mò của chúng tôi nhất là những kho lương. Những kho nầy sắp thành những hàng dài ngun ngút gồm các tòa nhà được xây cất rất thứ tự và chứa đầy lúa mà người ta nói rằng có thể nuôi sống cả Kinh thành trong nhiều năm. Vua trước cũng như vua nầy đều có thói quen tạo thêm mỗi năm hai hoặc ba dãy vựa lúa như vậy. Một tục xấu là tích trữ thật nhiều lúa má vào kho để dành cho những năm đói kém, nhưng chính nó lại đem đến hậu quả là làm gia tăng hoặc gây ra nạn đói. Tục đó được triều đình duy trì mãi như một phương châm không bỏ được. Tục ấy chỉ lợi ích ở chỗ bảo vệ được quyền thế của một triều đình chuyên chế. Các trại lính là những địa điểm ở gần chúng tôi nhất. Ở đây chúng tôi có thể thấy được binh sĩ ra vào. Các trại lính nầy được xây cất rất hoàn hảo, về phương diện bố trí và vệ sinh không kém gì của quân đội được tổ chức hoàn bị nhất bên Âu châu. Các trại lính trải rộng ra và vây bọc khắp phần bên ngoài của Kinh thành. Người ta nói với chúng tôi rằng có từ 12 đến 13 ngàn lính thường trực ở Thủ đô.
Một quang cảnh kỳ lạ nữa mà chúng tôi thấy được là xưởng đúc súng. Một trận mưa rào và đêm tối sẽ phải đến làm cho chúng tôi không thể quan sát hết tất cả cơ sở nầy; nhưng những gì chúng tôi thấy được cũng đã quá đủ để làm cho chúng tôi kinh ngạc và thỏa mãn tính hiếu kỳ của mình. Những khẩu đại bác bằng sắt được trình bày cho chúng tôi thấy trước tiên gồm một tổng hợp lạ kỳ của những đại bác trên chiến hạm của nhiều quốc gia khác nhau bên châu Âu như Pháp, Anh, Hòa Lan, Bồ Đào Nha. Như vậy cũng chưa kỳ dị cho bằng các khẩu súng đồng, những quả đạn tròn và đạn trái phá hoàn toàn do thợ bản xứ chế tạo tại Nam Hà bằng vật liệu chở từ Bắc kỳ vào và làm theo khuôn mẫu Pháp. Ngành pháo binh gồm có súng đại bác, súng bắn trái phá và súng cối. Giá súng thì được làm xong rồi sơn vẽ rất hoàn hảo, chứng tỏ rằng đã chế tạo tại Woolwich hoặc Fort-Milliam. Giá súng của những khẩu dã chiến cũng có vẽ rất đẹp. Những súng đại bác nầy có các khẩu kính khác nhau từ 4 đến 68 livres mà một khẩu kính 18 livres thì đã được xem là lớn rồi. Trong số những đại bác đó, có 9 khẩu súng đồng nổi bật đúc dưới triều Gia Long, mỗi khẩu có thể phóng đi một quả đạn tròn nặng đến 72 “etties” Tàu, tương đương với 93 livres. Những khẩu thần công nầy được chạm rất đẹp, đúc rất kỹ, và đặt trên những giá súng điêu khắc công phu. Trên những khẩu đại pháo nầy, khắc tên vua Gia Long cùng ngày và năm chế tạo. Nhà vua thường nói rằng các khẩu súng đó sẽ là những kỷ vật tồn tại lâu đời nhất của thời đại ông. Đó không phải là một lời nói quá đáng đối với nạn cai trị của vị vua ấy. Nghệ thuật đúc đại bác bằng đồng dưới sự hướng dẫn của người Âu hẳn đã du nhập vào xứ nầy lâu lắm rồi, vì có một số lớn súng đúc rất tốt khẩu kính chừng 9 livres được chế tạo vào những năm 1664 và 1665. Trên các súng đó có khắc chữ Bồ Đào Nha cho biết đã đúc tại Nam Hà hoặc tại Cao Mên mà mang những thời hiệu khả nghi cùng với tên người đúc. Dù rất kém giá trị nếu đem so với những khẩu vừa mới đúc dưới sự hướng dẫn của người Pháp, nhưng, các khẩu đại bác xưa cũ đó cũng đã có những mẫu mực rất đẹp. Những trái đạn đại bác và được bố trí theo phương pháp của người Âu; các giá súng hoàn toàn được sơn màu, tóm lại, xưởng đúc súng nầy được tổ chức trật tự và hoàn hảo nhất. Vị chỉ huy trưởng ngành pháo binh được lệnh hướng dẫn chúng tôi đi thăm tất cả khu vực và xem chừng ông mong đợi chúng tôi nhiều lắm. Đó là một trong những chiến binh kỳ cựu của vua Gia Long; một ông già đáng kính, diện mạo phương phi và mặc nhung phục lộng lẫy. Ngoài chức vụ chỉ huy nầy còn là vị quản lý của Hoàng cung nữa, và trong chức vụ, cuối cùng nầy, ông phải cáng đáng một số công việc không thích hợp tí nào với võ nghiệp của ông cả. Chẳng hạn, ông phải thanh tra các nhà bếp trong Hoàng cung, và thống kê tất cả những thai phụ và những vụ sinh nở ở hậu cung, đề phòng cẩn thận để loại trừ những trường hợp sinh sản bất hợp pháp trong chốn trang nghiêm nầy. Tất cả những khẩu đại bác trong Kinh thành không những được đặt lên trên các pháo sàng để cho giá súng khỏi bị ẩm thấp, mà còn được đặt vào trong kho cho khỏi bị mưa gió bất thường nữa. Không có khẩu nào được đem đến đặt ở các công trình xây cất cả, chỉ trừ một số ít được thiết trí trên thượng thành. Người ta nói với chúng tôi rằng số súng đại bác đó rất cần thiết cho 16 pháo đài, tất cả lên đến con số 576 khẩu và để trang bị đầy đủ cho các công trình kiến trúc, cũng phải cần đến chừng 800 khẩu. Tôi không biết đích xác số súng chứa trong kho là bao nhiêu, nhưng hẳn là nhiều hơn con số đó. Kho thuốc súng được xây cất một cách khôn khéo cũng như các công trình còn lại; kho này có một bức thành bao bọc lại được một cái hào sâu và rộng vây quanh. Gần đó, có một cái sân để lính diễn tập. Không cần nói, ai cũng biết là đối với bất cứ địch thủ Á châu nào, thành trì này cũng coi như là khó mà chiếm hữu được, tuy nhiên, lỗi lầm lớn nhất của nó là rộng mênh mông. Tôi muốn nói rằng, để phòng thủ thành trì nầy, cần phải có ít nhất là 50.000 binh sĩ. Một lực lượng như thế có thể dùng một cách hữu hiệu để làm mệt mỏi một địch thủ Á châu (hẳn phải là một địch thủ nào đáng sợ) bằng những chiến thuật tập kích và bất thường hầu có thể tạo nên may mắn độc nhất được song còn khi một địch thủ Á châu phải đương đầu với một quân đội có tổ chức quy cũ. Dù những cuộc tập kích đều đặn, hoặc áp dụng lối pháo kích, một lực lượng Âu châu thế nào cũng làm chủ được toàn thể thành trì ấy. Biến cố nầy làm cho họ chiếm hữu được kho tàng, các vựa thóc cũng như kho súng của Hoàng gia, và khi tiêu diệt xong lực lượng quân đội chính yếu cùng cắt đứt tất cả các nguồn tiếp trợ của triều đình thì hẳn nhiên là họ chiếm đoạt được vương quốc nầy ngay tức khắc. Mãi đến 8 giờ tối, chúng tôi mới trở về tới nơi cư ngụ, cả người ướt đẫm và mệt lữ, nhưng được đền bù lại là đã có dịp trông thấy những quang cảnh mới lạ và thích thú. P.T.A. dịch (4/12-83) |
THÁI KIM LAN
Nhân kỷ niệm 120 năm trường Quốc học Huế
Được sự cho phép của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, từ ngày 7/10/2016, Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Viện Khảo cổ học mở hố thám sát thăm dò dấu vết lăng mộ vua Quang Trung tại gò Dương Xuân (Trường An, TP Huế) với diện tích 22 m2.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Di tích lịch sử Đình Dương Xuân Hạ nằm ở khu vực thuộc làng cổ Dương Hóa, với bề dày lịch sử trên dưới 500 năm.
HOÀNG NGỌC CƯƠNG
LGT: Trong quá trình tìm hiểu về sự nghiệp trước tác của Thái sư - Tuy Thịnh Quận công Trương Đăng Quế (1793 - 1865)(1), chúng tôi đã phát hiện ra bài tựa Ninh Tĩnh thi tập tự [寧靜詩集序: Bài tựa Tập thơ Ninh Tĩnh]; được in trong sách Trương Quảng Khê công văn tập [張廣溪公文集: Tap văn của ông Trương Quảng Khê], từ tờ 29a - 30a, tập sách hiện đang được lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, dưới ký hiệu R.315.
TÔN THẤT BÌNH
Kim Long (còn được gọi là Kim Luông) vốn là đất các chúa Nguyễn chọn nơi lập phủ từ năm 1636 đến 1687. Năm 1687 chúa Nguyễn Phúc Trăn mới dời phủ về Phú Xuân, cách Kim Long chỉ 3 cây số, dọc theo bờ Sông Hương.
CAO THỊ THƠM QUANG
Kinh thành Huế là tòa thành ở Cố đô Huế, nơi đóng đô của vương triều Nguyễn trong suốt 140 năm từ 1805 đến 1945. Hiện nay Kinh thành Huế là một trong số các di tích thuộc cụm Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới vào ngày 29 tháng 3 năm 1993.
TRẦN VĂN DŨNG
Vừa qua, sau khi tấm hình chụp về Ngọ Môn không có 8 bộ mái lợp ngói thanh lưu ly ở lầu Ngũ Phụng xuất hiện trên các trạng mạng xã hội đã lôi cuốn một lượng lớn độc giả quan tâm tìm hiểu, đã có nhiều ý kiến bình luận đưa ra khác nhau.
TRẦN VĂN DŨNG
Nhà vườn truyền thống là di sản đặc trưng tạo nên bản sắc văn hóa Huế, ảnh hưởng lớn đến việc hình thành tính cách, tâm hồn của con người xứ Huế.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Triều Sơn, một tên làng đã vào dạ người Huế bao đời nay, qua câu hò ru em vời vợi. Nhiều người Huế nghĩ rằng làng Triều Sơn chuyên buôn bán, với cụm từ “Triều Sơn bán nón” có trong bài hò ru em phổ biến.
THANH HOA - LÊ HUỆ
Chợ Đông Ba có vị trí đắc địa khi nằm ở trung tâm thành phố Huế, dọc bờ sông Hương, bên đường Trần Hưng Đạo, cách cầu Trường Tiền khoảng 100m về phía Bắc. Đây không chỉ là niềm tự hào của người dân xứ Huế mà còn là nơi để du khách tìm hiểu văn hóa vùng đất Cố đô.
VÕ QUANG YẾN
Tạp chí Sông Hương đã có nhiều lần đề cập đến vấn đề sông Hương và cầu Trường Tiền, nhất là về năm xây cầu: Phan Thuận An, Phụ trương đặc biệt số 2; Quách Tấn, số 23; Hồ Tấn Phan, Nguyễn Thị Như Trang, số 29.
“Màu vàng lồng lộng chảy tràn lá xanh” là bộ sưu tập 11 chiếc áo dài xưa, bảo vật của gia đình Tiến sĩ Thái Kim Lan, gồm long bào Vua Khải Định, áo dài gấm the, áo mệnh phụ, áo lụa vàng, áo dài Hoàng thái hậu, áo mệnh phụ công nương, áo gấm xanh rêu, áo xiêm, áo dài lụa vân xanh... Được sự hỗ trợ của Viện Goethe tại Hà Nội lần này bộ sưu tập được đưa từ CHLB Đức về trưng bày tại Bảo tàng Văn hóa Huế, từ 18/5 đến 12/6/2016. Nghệ sĩ sắp đặt Veronika Witte, cũng từ CHLB Đức, trực tiếp thực hiện trong một không gian vô cùng lý tưởng. Tại phòng trưng bày chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh chủ nhân bộ sưu tập.
PHẠM HỮU THU
Những ai đã từng qua lại con đường Ngô Quyền, hẳn sẽ mừng vui khi thấy nơi này vừa xuất hiện một công trình mà nhiều người quen gọi là Bệnh viện quốc tế Trung ương Huế. Đây là mô hình xã hội hóa được thành lập theo Quyết định của Bộ trưởng Y tế và Bệnh viện Trung ương Huế là đơn vị đầu tiên của cả nước (trong số 18 bệnh viện) được Chính phủ cấp tín dụng ưu đãi nhằm hiện thực hóa chủ trương này.
LÊ QUANG THÁI
Một thời trong quá khứ xa gần, người phương Tây đã từng gọi và như đặt tên cho Đô thành Phú Xuân Huế là “thành phố quan lại”.
Một số thông tin chung
Một trong những bài viết nêu vấn đề Hội Quảng Tri - Huế có thể bị xóa bỏ đã được báo Tuổi Trẻ nêu lên trong bài “Huế xóa bỏ dấu tích nơi cụ Phan Bội Châu từng diễn thuyết?” ngày 26/11/2015. Trong đó có cho biết:
Một số thông tin chung
Một trong những bài viết nêu vấn đề Hội Quảng Tri - Huế có thể bị xóa bỏ đã được báo Tuổi Trẻ nêu lên trong bài “Huế xóa bỏ dấu tích nơi cụ Phan Bội Châu từng diễn thuyết?” ngày 26/11/2015.
DƯƠNG PHƯỚC THU
Hội quán Quảng Tri hiểu một cách nôm na ý nghĩa về cái tên của hội quán này là nơi giao lưu, sinh hoạt văn hóa, giáo dục, khoa học, nghệ thuật... nhằm mở rộng sự hiểu biết.
LTS: Trong thời gian qua, báo chí trong nước đã phản ảnh về việc Hội Quảng Tri - nơi diễn ra các hoạt động khai trí ở Huế đầu thế kỷ 20 - được đề xuất phá dỡ, xây mới để làm …trụ sở UBND phường.
Đề xuất này khiến người dân Huế và những người yêu Huế nói chung, nhân sĩ trí thức, văn nghệ sĩ Huế nói riêng lo lắng, nhiều ý kiến đề nghị cần cẩn trọng.
ĐỖ XUÂN CẨM
TƯỞNG HAI LÀ MỘT, NHƯNG MỘT MÀ HAI
Nhắc tới cây Bồ đề, hầu như đa phần người dân xứ Huế có cảm giác rất thân thuộc.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Từ năm 1917, tạp chí B.A.V.H đăng bài “Cầu ngói Thanh Thủy” của R.Orban. Trong bài nghiên cứu này ngoài phần khảo tả cầu ngói, tác giả đã công bố bản dịch đạo sắc do vua Lê Hiển Tông ban khen bà Trần Thị Đạo, người có công đóng góp tiền của xây dựng cầu ngói Thanh Thủy.