Mấy suy nghĩ về quan hệ hỗ tương giữa hai dòng thơ ca dân gian Bình Trị Thiên - Quảng Nam

14:37 10/01/2011
VĨNH QUYỀNTừ lâu điều kiện thiên nhiên cũng như điều kiện xã hội đều thuận lợi cho mối quan hệ giữa hai dòng thơ ca dân gian Bình Trị Thiên và Quảng Nam.

Ảnh: Internet

Thời Lê Thánh Tông, thế kỷ thứ XV, Quảng Nam vốn là tên một đạo rộng lớn. Đến thế kỷ thứ XIX, triều Nguyễn chia đạo Quảng Nam ra làm ba tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Quảng Nam gồm hai phủ Thăng Hoa và Điện Bàn. Thăng Hoa mạnh về công nghiệp, Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến chương loại chí” đã nhận xét là “có nền công nghệ tinh xảo, dệt ra những thứ lĩnh, lụa, là.. nhuộm màu khéo và đẹp không khác gì hàng Quảng Đông. Núi sản xuất nhiều vàng tốt. Voi rừng nhiều. Dân chăn nuôi nhiều trâu ngựa…” và Điện Bàn có “đất tốt”, lắm súc vật, hàng hóa tốt, đáng gọi là bậc nhất năm châu”. Với ưu đãi của thiên nhiên như thế, Quảng Nam chính là một trong những miền đất hứa thu hút những đoàn di dân xuất phát từ Bình Trị Thiên, nơi mà sinh hoạt có phần khó khăn vì đất trồng hẹp, dân cư đông, khí hậu lại khắc nghiệt. Nói lên cảnh sinh hoạt không mấy thuận lợi của mình, quần chúng lao động Bình Trị Thiên có câu hát đượm buồn:

Quê hương em nghèo lắm ai ơi
Mùa đông thiếu áo mùa hè thiếu ăn
Trời hành cơn lụt mỗi năm…

Đoàn người vượt đèo Hải Vân hiểm trở vào đất Quảng lập nghiệp không chỉ vì lý do kinh tế mà còn cả nguyên nhân chính trị. Có những tộc, những làng đã kéo nhau ra đi để tránh sự thanh trừng của triều đình phong kiến sau những cơn biến động chính trị. Tìm đọc gia phả của các tộc nhiều đời định cư trên đất Quảng có gốc Bình Trị Thiên ta thấy được điều này.

Ngược lại, Bình Trị Thiên, hay chính xác hơn là Thừa Thiên, từ ngày triều Nguyễn bỏ lệ tổ tiên dời đô vào Huế, đã trở thành nơi kinh kỳ đô hội, lôi cuốn nhiều danh sĩ, thương nhân, nghệ nhân bốn phương tụ tập đông đảo. Chính thế mà câu hát hào hùng “Làm trai cho đáng nên trai, xuống Đông, Đông tĩnh, Lên Đoài, Đoài tan” được láy lại để đề cao người từng trải, đi nhiều biết rộng như sau:

Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng


Riêng Quảng Nam, với điều kiện tự nhiên liền núi liền biển nên việc ra vào học hành thi cử, buôn bán trao đổi hàng hóa tương đối thuận lợi. Năm 1678 Quảng Nam mở khoa thi hương đầu tiên, nhưng cũng như trước 1678, sĩ tử trúng cách thi hương cũng vẫn phải lều chõng ra kinh đô Huế tham dự kỳ thi hội chọn tiến sĩ, ngay cả đến những năm 50 của thế kỷ XX này, học sinh Quảng Nam hàng năm còn phải ra Huế thi tú tài, tức tốt nghiệp phổ thông cấp 3 bây giờ. Và như vậy, trong số hành trang mang theo trên đường vượt Hải Vân, nhân dân hai tỉnh đã mang theo cả câu hò tiếng hát của mảnh đất chôn rau cắt rốn, lâu ngày tạo nên mối quan hệ giao lưu, kế thừa và phát huy giữa hai dòng thơ ca dân gian Bình Trị Thiên và Quảng Nam.

Có thể nhận ra mối quan hệ giữa hai dòng thơ ca dân gian Bình Trị Thiên và Quảng Nam ở hình thức kết cấu, cách đặt câu của một số bài ca. Sau đây là hai bài ca mang nội dung khác nhau. Một bài là hình ảnh cô thiếu nữ Bình Trị Thiên đi thăm lúa trong một buổi mai hồng trên cánh đồng mênh mông bát ngát, nói về tuổi dậy thì tươi đẹp nhưng nhỏ nhoi, mong manh trước cảnh trời bao la của mình:

Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông,
Thân em như chẹn lúa đòng đòng
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai

Một bài là người con trai đất Quảng đứng trước cảnh quân thù giày xéo đất nước mà đau lòng, nhắc nhở đến tình cảm cao quý, cần thiết tình thủy chung, thủy chung với ngọn cờ cách mạng:

Đứng bên ni Hàn, ngó qua bên tê Hà Thân, thấy nước xanh xanh như tàu lá
Đứng bên tê Hà Thân, ngó qua bên ni Hàn, thấy phố xá nghênh ngang
Kể từ ngày Tây lại cửa Hàn
Đào sông Câu Nhí, bòn vàng Bồng Miêu
Dặn lòng ai dỗ đừng xiêu
Trăm năm đi nữa lá cờ điều cũng đừng phai.


Nhưng như ta thấy, về mặt hình thức, cả hai bài đều có chung một tiết điệu, một cấu trúc câu trong phần hứng mở đầu.

Hoặc có những bài chịu ảnh hưởng sâu đậm lẫn nhau cả hình thức lẫn nội dung, chỉ thay đổi địa danh thích hợp. Ở đất Quảng, trong số những bài hát ru em, chúng ta thường nghe bài:

Bồng em mà bỏ vô nôi
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
Mua cau Bất Nhị mua trầu Hội An


Thì ở Bình Trị Thiên, ngoài một số tiếng địa phương và địa danh, chúng ta được nghe toàn bộ bài trên:

Ru em em théc cho muồi
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
Mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh


Bên cạnh mối quan hệ, ảnh hưởng qua lại về hình thức cũng như về nội dung, một số thơ ca dân gian Bình Trị Thiên và Quảng Nam còn được khai sinh bởi sự tác động của mối quan hệ xã hội của hai tỉnh qua bao nhiêu thời kỳ lịch sử.

Thuở xa xưa, với phương tiện giao thông vận tải thô sơ, Hải Vân là một chướng ngại lớn lao trên con đường phát triển vào phương nam của dân tộc ta, mà nhân dân Bình Trị Thiên và Quảng Nam là những người trực tiếp gánh chịu sự khó khăn trong việc đi lại giữa hai tỉnh. Do vậy, trong thơ ca dân gian Bình Trị Thiên cũng như Quảng Nam, hình tượng núi Hải Vân là một hình tượng thường trở lại:

Đi bộ thì khiếp Hải Vân
Đi thuyền thì khiếp sóng thần hang Giơi
Hải Vân cao ngất tầng mây
Giặc đi đến đó bỏ thây không về.


Hải Vân hiểm trở là thế, nhưng nhân dân hai tỉnh vẫn thường xuyên ra vào, ngày càng mật thiết. Con em đất Quảng bao đời khăn gói đi học, lều chõng đi thi ở Huế đã để lại cho chúng ta ngày nay câu hát dí dỏm, tươi trẻ:

Học trò trong Quảng ra thi
Thấy cô gái Huế chân đi không đành!


Và nói đến mối quan hệ xã hội chúng ta không thể nào không nghĩ đến những mối tình Bình Trị Thiên - Quảng Nam, chính nó là một nguồn tác động mãnh liệt đến quá trình sáng tác của nhân dân hai tỉnh. Đây là tâm sự người thiếu nữ Thừa Thiên chờ đợi mối duyên đất Quảng xa xôi nhưng giàu tình lắm nghĩa:

Em thương, không thương, nỏ biết
Em thốt những lời thảm thiết hơn thương
Thiếu chi ba phủ Thừa Thiên
Thấy anh có nghĩa em ôm duyên ngồi chờ


Núi sông cách trở khiến mối duyên xa thơ mộng lắm lúc phải sầu khổ:

Chiều chiều mây phủ Hải Vân
Chim kêu gành đá, ngẫm thân thêm buồn
Giậm chân xuống đất kêu trời
Chồng tôi về Quảng biết đời nào ra?


Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chúng ta có rất nhiều bài hát phản ánh tình cảnh khốn khổ của nhân dân ta trước chính sách mộ lính thuộc địa của thực dân Pháp. Trong đó, có một bài mà không gian gồm cả hai tỉnh Bình Trị Thiên - Quảng Nam. Cứ theo nội dung thì bài này do nhân dân Bình Trị Thiên sáng tác, nhưng trong thực tế nó lại được phổ biến rộng rãi ở Quảng Nam:

Sáu giờ còn ở kinh đô
Chín giờ xe lửa đã vô cửa Hàn
Mười giờ bước xuống xà lan
Bóp bụng mà chịu, nát gan trăm bề
Lên tàu còi thổi xúp lê
Khoác khăn chéo lại, em về nuôi con
Đầu hè có buồng chuối non
Để dành xáo ghế cho con ăn lần
Khoai từ, khoai choái, khoai nằn
Với một vạt bắp trước sân chưa già
Có hủ sắn luộc trong nhà
Để dành lần lữa cho qua tháng ngày
Bớ em ơi! Ráng mà nuôi con chim chuyền cho nó biết lượn biết bay
Mai sau anh có thác em bảo cho con nhớ cái ngày anh đi…


Trên đây chưa phải là bài nghiên cứu một khía cạnh văn học dân gian theo đúng nghĩa của nó mà đó là mấy dòng suy nghĩ của chúng tôi về mối quan hệ hỗ tương tác động trong thơ ca dân gian của hai tỉnh nổi tiếng có truyền thống văn học: Bình Trị Thiên - Quảng Nam. Những dẫn chứng minh họa trong bài chưa phải là những tìm tòi công phu, sưu tầm phong phú và chọn lọc tiêu biểu mà nó đến tự nhiên trong quá trình suy nghĩ của chúng tôi như đã thấm vào mạch sống tự bao giờ. Chúng tôi cũng chưa minh định một cách khoa học mối hỗ tương trên từng bài hát, câu hò cụ thể. Đó là yêu cầu lớn, đòi hỏi một công trình tập thể, quy mô mà chúng tôi hằng mong đợi.

V.Q.
Đà Nẵng, 2-1984.
(10/12-84)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHAN TRỌNG HOÀCó thể khảo sát nghĩa của tục ngữ từ góc độ văn bản hoặc góc độ ứng dụng. Ở nước ta, việc nghiên cứu nghĩa của tục ngữ trong quá trình sử dụng không phải là một vấn đề mới mẻ, nhưng so với xu hướng này thì việc nghiên cứu nghĩa của tục ngữ ở trạng thái ổn định trên văn bản đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Thật khó khẳng định rằng trong hai cách xem xét trên thì cách nào là quan trọng hơn, vì nó không chỉ phụ thuộc vào đặc trưng thể loại của đối tượng được nghiên cứu mà nhiều khi còn tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu của từng loại đề tài và nói chung là tuỳ thuộc vào nhu cầu của hoạt động thực tiễn. Điều đáng lưu tâm là ở chỗ, khi mình đã lựa chọn hướng tiếp cận này thì đừng vì thế mà phủ nhận hướng tiếp cận kia.

  • TRẦN ANH PHƯƠNGĐi chơi gặp vịt cũng lùagặp duyên cũng kết gặp chùa cũng tu                                                (Ca dao)

  • VIỆT CHUNGTrong 12 con giáp, con dê (Mùi còn gọi là Vị) là con vật đứng vào hàng thứ 8, trước khỉ và sau ngựa. Dê tên chữ là Dương.Dê vốn là con vật miền núi, được thuần hoá nên có thể nuôi trong nhà. Hình ảnh con dê gây được những ấn tượng với người đời một cách khó quên. Đặc biệt của loài dê là dê đực hoặc dê cái đều có râu và có sừng, bản chất hiền lành và tràn đầy sinh lực.

  • TRIỀU NGUYÊNHiện tượng cùng âm xảy ra khi cùng một tổ hợp âm thanh nhưng có nhiều ý nghĩa khác nhau tương ứng, trong cùng một ngữ cảnh. Câu đối chơi chữ theo cách cùng âm có thể chia làm hai loại: lặp nhiều từ ngữ cùng âm trên cùng một văn bản ngắn; dùng một tổ hợp để biểu thị hai từ ngữ cùng âm; đồng thời, dạng cùng âm có yếu tố tên riêng cũng được xét như một loại đặc biệt.

  • PHẠM THỊ ANH NGATheo quan niệm thông thường, phép lịch sự bao giờ cũng có tính ưu đãi đối với tha nhân: dành cho kẻ khác một tầm quan trọng và thái độ trân trọng hơn là đối với chính bản thân. Nhưng cũng tuỳ từng nền văn hoá, mà giữa hai bên tương tác có sự cân bằng tương đối về vai vế hay không. C. Kerbrat-Orecchioni phân biệt: (1) Những xã hội ở đó quyền lợi giữa hai bên giao tiếp tương đối ngang nhau; (2) Những xã hội xem đối tượng tương tác (A: allocutaire) có được nhiều quyền ưu tiên hơn bản thân người tương tác (L : locuteur).

  • TRIỀU NGUYÊN1. Câu tục ngữ "Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại" được sách Kho tàng tục ngữ người Việt (Nguyễn Xuân Kính (chủ biên), Nguyễn Thuý Loan, Phan Lan Hương, Nguyễn Luân; Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2002) (KT), tr 75, ghi lại, trên cơ sở 12 đầu sách có chép nó.

  • NGUYỄN ĐỨC TĂNGCũng như ca dao, những câu hò trong dân gian thuộc loại văn chương bình dân nên rất phổ cập trong dân chúng. Tác giả của nó có thể là những nhà thơ dân gian, thường không lưu lại tên tuổi như những nhà thơ của văn học thành văn, nhưng cũng đóng góp đời mình vào sự phát triển của ngôn ngữ thơ ca trong lãnh vực văn chương bình dân.

  • TÔ VĨNH HÀNhỏ nhất như con chuột và kiêu dũng nhất như con rồng, mười hai con giáp trong lịch can - chi vẫn mãi thôi thúc lẽ nghĩ suy của muôn vạn kiếp đời trong cái nghiệp tận hằng của sự hiểu và cả “sự” làm người.

  • TRẦN ĐÌNH SỬNgười mù đều rất đôngTranh nhau nói sự thậtVoi vốn chỉ một thânThị phi lại bất đồng…

  • TRIỀU NGUYÊNI. Khái quátXem xét cách sử dụng hình ảnh của một thể loại văn học là yêu cầu cần có khi tiếp cận thể loại ấy. Tình hình nghiên cứu thể loại câu đố có nhiều hạn chế so với các thể loại khác của văn học dân gian, trong đó, có vấn đề hình ảnh.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGCho đến nay, đã có các công trình sưu tầm và biên soạn truyện cổ Tà Ôi khá đầy đặn về văn bản. Qua các công trình nầy chúng ta thấy rằng người Tà Ôi sinh sống trên dãy Trường Sơn, quần cư chủ yếu trên địa bàn hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế đang lưu giữ một kho tàng tri thức phong phú về văn học dân gian mà trong đó thể loại An xoar (chuyện cổ tích) là một thí dụ điển hình.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGNgười Tà Ôi ở Việt Nam thật sự đã có một kho tàng văn học dân gian rất phong phú với các thể loại: Ca dao (Pracăm), câu đố (Pralau), truyện cổ dân gian (Axoar), tục ngữ và dân ca.

  • TRIỀU NGUYÊN           Chùm Truyện ngụ ngôn

  • HẢI TRUNGVào thời Hán, ở Trung Quốc, có một vị tướng tên là Đậu Thao, do phạm trọng tội nên bị vua Hán đày biệt xứ ra biên ải. Vợ của tướng quân này là Tô Huệ là một phụ nữ bình dân sống bằng nghề dệt lụa. Từ ngày Đậu Thao bị đày ra biên ải, ngày đêm vò võ ngóng tin chồng, nhưng ngày tháng cứ nối nhau qua mãi mà vẫn biệt âm vô tín.

  • TRIỀU NGUYÊN 1.Trong cấu tạo nhan đề của thơ văn Hán Nôm, ở dạng danh ngữ, có hai hình thức thường gặp: danh từ trung tâm biểu thị thể loại (như: Hịch tướng sĩ văn - Trần Quốc Tuấn, Ngọc tỉnh liên phú - Mạc Đỉnh Chi, Thượng kinh kí sự - Lê Hữu Trác, Hoàng Lê nhất thống chí - Ngô Gia văn phái, Hạ Châu tạp thi - Cao Bá Quát,...).