Mấy ghi nhận về những hài cốt của Tây Sơn trong nhà tù Khám Đường

15:51 16/07/2010
(Note sur les cendres des Tây Sơn dans la prison du Khám Đường, par Nguyễn Đình Hòe, B.A.V.H. 1914 p. 145-146)

Vua Gia Long - Nguyễn Phúc Ánh

LTS: Được xuất bản từ đầu năm 1914 đến giữa năm 1944, bộ báo “Đô Thành Hiếu Cổ” Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H) gồm 122 tập với khoảng 15.000 trang sách. Bộ báo này hiện nay là một tài liệu quý vì dù thực dân Pháp dùng nó như một công cụ trong chính sách cai trị văn hoá của họ, trong đó vẫn có những tập, những bài nghiên cứu đúng đắn có giá trị văn hoá lịch sử.

Bởi vậy chúng tôi sẽ lần lượt cho đăng tải một số bài dịch ra tiếng Việt những công trình nghiên cứu có giá trị khoa học và lượng thông tin quan trọng đối với việc tìm hiểu lịch sử và văn hoá thành phố nói riêng và tình hình Bình Trị Thiên nói chung.

Trong số này chúng tôi giới thiệu bài dịch đầu tiên của Phan Thuận An.


Sau khi chiến thắng liên tiếp quân Trịnh và quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh, vị thân vương độc nhất và cuối cùng của nhà Nguyễn, đã làm lễ khải hoàn ở Huế vào mùa đông năm Nhâm Tuất (1802). Lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Gia Long, ông tổ chức một cuộc lễ ở Miếu thờ hoàng gia, một cuộc lễ long trọng gọi là lễ Hiển Phù (2). Để nói lên ý nghĩa của cuộc lễ ấy, vua đã ra lệnh đào thi hài của các vua Tây Sơn là Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ lên để nghiền nát và ném cho bay theo gió. Riêng những cái sọ của hai kẻ phản nghịch này thì để lại, nhưng đưa vào ngục thất (3) và để kín trong những cái vò.

Theo một câu chuyện có tính cách lịch sử, thì ở Khâm đường có ba cái vò, hai cái nhốt những sọ của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ , cái thứ ba đựng hài cốt của Nguyễn Văn Lữ , hoặc của Nguyễn Quang Toản. Đó là điều người ta chưa biết được một cách chính xác.

Ba cái vò này bị giam giữ trong những ngăn cách biệt nhau của Khám đường. Chúng bị xích lại và những cánh cửa của các ngăn ấy đều bị niêm phong. Mỗi tháng đều có một phái đoàn đặc biệt đến xem xét, xác nhận lại sự phong bế ấy . Những cái vò nầy đã trở thành đối tượng của một sự thờ cúng đặc biệt của những người lính được giao cho nhiệm vụ canh giữ Khám đường, giúp họ rất có hiệu lực trong việc tìm lại các tù nhân bỏ trốn.

Chính các tù nhân cũng đã trông thấy nơi những người Tây Sơn hay nói đúng hơn nơi những hài cốt bị giam giữ trong những chiếc vò ấy và bị xiềng lại như họ - những thần linh mà họ tôn sùng với mục đích xin cho họ được che chở và được đỡ khổ hơn trong chế độ lao ngục. Vả lại, những cái vò này đã được gọi tên là ông Vò hay chúa Ngụy.

Những cái vò ấy chắc đã biến mất vào thời kỳ xảy ra vụ âm mưu chiếm Huế năm 1885, các tù nhân trong khi đào thoát đã cố ý mang đi.

Hiện nay còn tương truyền hai câu chuyện rất đặc biệt về vấn đề hài cốt của Tây Sơn.

Chuyện thứ nhất do các bà trong nội cung kể lại, nói rằng một trong những cái sọ ấy đã hiện ra cho Đồng Khánh thấy ngay bên trong Hoàng cung. Khi ông vừa chợt nhận ra thì nó biến thành một con mèo rừng. Đồng Khánh là một tay thiện xạ, ông liền đưa súng nhắm bắn. Tức tốc, con mèo hóa ra thành một con gà vàng và sau khi nhảy lên trên một cái tủ trong cung điện thì nó biến mất. Sự hiện hình này đã gây bất hạnh cho vua Đồng Khánh là ông bị bệnh ngay và chết một cách nhanh chóng.

Chuyện thứ hai, cũng khó tin như chuyện vừa rồi, kể rằng Thành Thái lúc còn nhỏ, trong khi dở nắp một trong những cái vò ấy ra để xem ở tại trong Hoàng thành gì đó, ông đã bị thần lực của Tây Sơn gây cảm xúc rất mạnh để trả thù và sức khỏe của ông vua trẻ này đã bị sa sút hẳn.

Phan Thuận An dịch
(2/8-83)



-------------
1. Thông báo đã đọc trong cuộc họp ngày 23 tháng 4-1914.
2. Trong nghi thức cử hành, cuộc lễ này bao gồm việc cúng tế để biểu dương những binh sĩ đã chết trong suốt thời kỳ chiến tranh và trình diện trước bàn thờ những tù binh chiến tranh cũng như các chiến lợi phẩm tịch thu được của kẻ thù.
3. Ngục thất là Khám đường ngày xưa: Vào năm thứ sáu triều Minh Mạng, vua đã sửa đổi danh từ Ngục thất nghĩa là nhà giam và cho thêm vào đó một trợ từ nữa là Khám đường (phòng thẩm tra tư pháp) thành ra Khám đường Ngục thất.





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • CHÂU MINH HÙNGLối viết chỉ là Tự do trong một khoảnh khắc. Nhưng đó là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất của Lịch sử, bởi Lịch sử luôn luôn và trước hết là một lựa chọn và những giới hạn của lựa chọn ấy.                                      (R. Barthes, Độ không của lối viết)

  • TRẦN THIỆN KHANHTích nhân/  dĩ thừa/  hoàng hạc khứThử địa/  không dư/  Hoàng Hạc lâuHoàng hạc/ nhất khứ/  bất phục phảnBạch vân/ thiên tải/ không du du…

  • PHẠM THỊ THÚY VINHThơ Lâm Thị Mỹ Dạ rất giàu hình ảnh. Thế giới hình ảnh trong thơ chị vừa đậm sắc màu hiện thực, ngồn ngộn hơi thở cuộc sống vừa mang tính biểu tượng cao. Điều đó đã thể hiện tài năng và sự khéo léo của nhà thơ, nhằm làm cho những bài thơ của mình không chỉ dừng lại ở những lời thuyết lí khô khan, trừu tượng. Thế giời hình ảnh bao giờ cũng gợi ra trong trí tưởng tượng của người đọc nhiều liên tưởng bất ngờ và thú vị, làm cho lời thơ thêm mượt mà, trong sáng.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   (Tiếp Sông Hương số 11-2008)Bản thể con người chỉ cấu trúc bằng cảm giác và những gì là biến tướng khả dĩ của cảm giác mà không từ bỏ cấu trúc thiên định bao gồm kết cấu thực và kết cấu ảo của cảm giác. Nếu hình dung kết cấu thực là trạng thái mô phỏng thế giới, nghĩa là cái quan hệ hấp dẫn giữa xung động thần kinh não bộ con người với xung động tiếp nhận thế giới, thì chúng ta hình dung được kết cấu ảo chỉ là sản phẩm thuần tuý do xung động nội tại của thần kinh não bộ con người.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.

  • CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.

  • NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.

  • PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)

  • TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

  • NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.

  • TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

  • THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.

  • HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.

  • TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.