Vua Gia Long - Nguyễn Phúc Ánh
LTS: Được xuất bản từ đầu năm 1914 đến giữa năm 1944, bộ báo “Đô Thành Hiếu Cổ” Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H) gồm 122 tập với khoảng 15.000 trang sách. Bộ báo này hiện nay là một tài liệu quý vì dù thực dân Pháp dùng nó như một công cụ trong chính sách cai trị văn hoá của họ, trong đó vẫn có những tập, những bài nghiên cứu đúng đắn có giá trị văn hoá lịch sử. Bởi vậy chúng tôi sẽ lần lượt cho đăng tải một số bài dịch ra tiếng Việt những công trình nghiên cứu có giá trị khoa học và lượng thông tin quan trọng đối với việc tìm hiểu lịch sử và văn hoá thành phố nói riêng và tình hình Bình Trị Thiên nói chung. Trong số này chúng tôi giới thiệu bài dịch đầu tiên của Phan Thuận An. Sau khi chiến thắng liên tiếp quân Trịnh và quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh, vị thân vương độc nhất và cuối cùng của nhà Nguyễn, đã làm lễ khải hoàn ở Huế vào mùa đông năm Nhâm Tuất (1802). Lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Gia Long, ông tổ chức một cuộc lễ ở Miếu thờ hoàng gia, một cuộc lễ long trọng gọi là lễ Hiển Phù (2). Để nói lên ý nghĩa của cuộc lễ ấy, vua đã ra lệnh đào thi hài của các vua Tây Sơn là Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ lên để nghiền nát và ném cho bay theo gió. Riêng những cái sọ của hai kẻ phản nghịch này thì để lại, nhưng đưa vào ngục thất (3) và để kín trong những cái vò. Theo một câu chuyện có tính cách lịch sử, thì ở Khâm đường có ba cái vò, hai cái nhốt những sọ của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ , cái thứ ba đựng hài cốt của Nguyễn Văn Lữ , hoặc của Nguyễn Quang Toản. Đó là điều người ta chưa biết được một cách chính xác. Ba cái vò này bị giam giữ trong những ngăn cách biệt nhau của Khám đường. Chúng bị xích lại và những cánh cửa của các ngăn ấy đều bị niêm phong. Mỗi tháng đều có một phái đoàn đặc biệt đến xem xét, xác nhận lại sự phong bế ấy . Những cái vò nầy đã trở thành đối tượng của một sự thờ cúng đặc biệt của những người lính được giao cho nhiệm vụ canh giữ Khám đường, giúp họ rất có hiệu lực trong việc tìm lại các tù nhân bỏ trốn. Chính các tù nhân cũng đã trông thấy nơi những người Tây Sơn hay nói đúng hơn nơi những hài cốt bị giam giữ trong những chiếc vò ấy và bị xiềng lại như họ - những thần linh mà họ tôn sùng với mục đích xin cho họ được che chở và được đỡ khổ hơn trong chế độ lao ngục. Vả lại, những cái vò này đã được gọi tên là ông Vò hay chúa Ngụy. Những cái vò ấy chắc đã biến mất vào thời kỳ xảy ra vụ âm mưu chiếm Huế năm 1885, các tù nhân trong khi đào thoát đã cố ý mang đi. Hiện nay còn tương truyền hai câu chuyện rất đặc biệt về vấn đề hài cốt của Tây Sơn. Chuyện thứ nhất do các bà trong nội cung kể lại, nói rằng một trong những cái sọ ấy đã hiện ra cho Đồng Khánh thấy ngay bên trong Hoàng cung. Khi ông vừa chợt nhận ra thì nó biến thành một con mèo rừng. Đồng Khánh là một tay thiện xạ, ông liền đưa súng nhắm bắn. Tức tốc, con mèo hóa ra thành một con gà vàng và sau khi nhảy lên trên một cái tủ trong cung điện thì nó biến mất. Sự hiện hình này đã gây bất hạnh cho vua Đồng Khánh là ông bị bệnh ngay và chết một cách nhanh chóng. Chuyện thứ hai, cũng khó tin như chuyện vừa rồi, kể rằng Thành Thái lúc còn nhỏ, trong khi dở nắp một trong những cái vò ấy ra để xem ở tại trong Hoàng thành gì đó, ông đã bị thần lực của Tây Sơn gây cảm xúc rất mạnh để trả thù và sức khỏe của ông vua trẻ này đã bị sa sút hẳn. Phan Thuận An dịch (2/8-83) ------------- 1. Thông báo đã đọc trong cuộc họp ngày 23 tháng 4-1914. 2. Trong nghi thức cử hành, cuộc lễ này bao gồm việc cúng tế để biểu dương những binh sĩ đã chết trong suốt thời kỳ chiến tranh và trình diện trước bàn thờ những tù binh chiến tranh cũng như các chiến lợi phẩm tịch thu được của kẻ thù. 3. Ngục thất là Khám đường ngày xưa: Vào năm thứ sáu triều Minh Mạng, vua đã sửa đổi danh từ Ngục thất nghĩa là nhà giam và cho thêm vào đó một trợ từ nữa là Khám đường (phòng thẩm tra tư pháp) thành ra Khám đường Ngục thất. |
Giấy dó là sản phẩm thủ công của cha ông ta để lại. Xưa kia làng Bưởi có nghề làm giấy dó nổi tiếng. Giấy dó được dùng vào việc ghi chép văn bản chữ Hán nôm, viết bút lông mực tàu...
Sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật- dù ở đâu, thời kỳ lịch sử nào cũng vậy- thường phụ thuộc vào 3 nhân tố quan trọng và phổ quát nhất: Sự phát triển của khoa học và công nghệ; Những chính sách chính trị (trong đó bao gồm cả những chính sách về văn hóa và nghệ thuật); Những nhà tư tưởng và nghệ sỹ lớn.
TRẦN HUYỀN SÂMClaude Lévi-Strauss là một trường hợp hiếm thấy và khó lặp lại trong lịch sử nhân loại. Lévi chính là một cú sốc đối với nền văn minh phương Tây. Lý thuyết của nhà cấu trúc học vĩ đại này là sự hạ bệ hùng hồn nhất đối với tư tưởng thống ngự và độc tôn của xã hội toàn trị châu Âu; và là sự biện minh sâu sắc cho một mô thức đa văn hóa của nhân loại.
LÊ THÀNH LÂNTrong 4 năm liền, Tào Mạt lần lượt cho ra đời ba vở chèo tạo nên một bộ ba chèo lịch sử với tiêu đề chung là Bài ca giữ nước, đều do Đoàn Nghệ thuật Tổng cục Hậu cần dàn dựng và đều được nhận những giải thưởng cao.
PHONG LÊĐó là: 1. Từ sự phân cách, chia đôi của hai thế giới - địch và ta, chuyển sang hội nhập, cộng sinh, có nghĩa là nhân rộng hơn các tiềm năng, cũng đồng thời phải biết cách ngăn ngừa, hoặc chung sống với các hiểm họa. 2. Từ cộng đồng chuyển sang cá nhân, cá nhân trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển, nhưng cá nhân cũng sẵn sàng nổi loạn cho các ước vọng thoát ra khỏi các chuẩn mực của cộng đồng. Và 3. Từ phong bế (ở các cấp độ khác nhau) đến sự mở rộng giao lưu, hội nhập với khu vực và quốc tế, với sự lưu tâm hoặc cảnh báo: trong đi tắt, đón đầu mà không được đứt gẫy với lịch sử.
ĐỖ HẢI NINH(Nhân đọc tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng. Nxb Phụ Nữ, H, 2009; tác phẩm nhận giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2009)
PHẠM QUANG TRUNGHiện nay, vấn đề đổi mới thi pháp đang được nhiều người cầm bút quan tâm. Xin ghi lại cuộc trao đổi mới đây giữa tôi (PQT) với một nhà văn (NV) về vấn đề bức thiết này.
(Theo bách khoa thần học New Catholie)THẨM GIÁ PHÊ BÌNH Việc thiết định giá trị phán đoán trong phê bình đã được kiểm thảo một cách nghiêm khắc trong thế kỷ XX. Chẳng hạn, người ta cho rằng phê bình đã vượt lên cả tầm vóc “viên đá thử vàng” trong việc thẩm giá hội họa để dẫn dắt thị hiếu thưởng thức hội họa của công chúng.
NGUYỄN ĐĂNG MẠNH(Kỷ niệm 70 năm ngày mất nhà văn Vũ Trọng Phụng 1939 - 2009)Trong lĩnh vực văn chương, tác phẩm không hay, không có giá trị nghệ thuật thì chỉ là con số không, chẳng có gì để nói, để bàn. Người viết ra nó, dù cuộc đời có ly kỳ thế nào, người ta cũng chẳng quan tâm.
ĐỖ LAI THÚYHòn đất cũng biết nói năng(Nhại ca dao)
HOÀNG CẦMĐang những ngày hè oi ả, mệt lử người thì anh ấy mời tôi viết Bạt cho tập thơ sắp muốn in ra. Ai đời viết bạt cho tác phẩm người khác lại phải dành trang giấy đầu tiên để viết về mình? Người ta sẽ bảo ông này kiêu kỳ hay hợm hĩnh chăng? Nhưng cái anh thi sỹ tác giả tập thơ thì lại bảo: Xin ông cứ viết cho, dẫu là bạt tử, bạt mạng, thậm chí có làm bạt vía ai cũng được - Chết, chết! Tôi có thể viết bạt mạng chứ sức mấy mà làm bạt vía ai được.
ĐẶNG ANH ĐÀOTrong tác phẩm nghệ thuật, phân biệt thật rạch ròi cái gì là ý thức, sáng suốt, tự giác với cái gì vô ý thức, tự phát, cảm tính không phải là điều đơn giản. Ngay cả những nhà văn lãng mạn như Huygô, nhiều lúc sử dụng nhân vật chính diện như những cái loa phát biểu lý tưởng của mình, thế mà đã có lúc Kessler bịt miệng lại không cho tán tụng nhân vật Côdet và mắng rằng: Huygô anh chả hiểu gì về tác phẩm ấy hết", đồng thời tuyên bố rằng ông còn thích Epônin gấp bội lần "Côdet, cô nàng điệu đàng đã tư sản hóa ấy".
ĐỖ ĐỨC HIỂU…Với tôi, Balzac là Tiểu thuyết, và Tiểu thuyết là Balzac, - tiểu thuyết Balzac là "tiểu thuyết tuyệt đối", tức là nó biểu hiện tất cả sức mạnh sáng tạo của ông, tất cả cái "lực" của ý thức và tâm linh, của khoa học và tôn giáo, từ cấu trúc truyện và thời - không gian (chronotope), đến cấu trúc nhân vật, tất cả phối âm, tương ứng với nhau thành một dàn nhạc hoàn chỉnh…
HỮU ĐẠTKhông phải ngẫu nhiên, Trần Đăng Khoa lại kết thúc bài viết về Phù Thăng một câu văn rất là trăn trở: "Bất giác... Tôi nắm chặt bàn tay gầy guộc của Phù Thăng, lòng mơ hồ rờn rợn. Chỉ sợ ở một xó xỉnh nào đó, sau lùm cây tối sầm kia, lại bất ngờ cất lên một tiếng gà gáy..." Ta thấy, sau cái vẻ tếu táo bên ngoài kia lắng xuống một cái gì. Đó là điểm gợi lên ở suy nghĩ người đọc.
HÀ QUANG MINHTôi không muốn chỉ bàn tới cuốn sách của ông Khoa mà thôi. Tôi chỉ coi đó là một cái cớ để bàn luận về nền văn học nước nhà hiện nay. Là một người yêu văn học, nhiều khi tôi muốn quên đi nhưng vô tình vấn đề nẩy sinh TỪ "CHÂN DUNG VÀ ĐỐI THOẠI" đã trở thành giọt nước cuối cùng làm tràn ly và lôi tuột cái nỗi đau mà tôi muốn phớt lờ ấy. Phải, tôi thấy đau lắm chứ. Bởi lẽ ai có ngờ mảnh đất trong sáng mang tên văn học sao giờ đây lại ô nhiễm đến thế.
HOÀNG NGỌC HIẾN(góp phần định nghĩa minh triết) (tiếp Sông Hương số 248)
Việc giải quyết thành công mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính hiện đại đã hình thành ra các trường phái âm nhạc như: âm nhạc Nga, Pháp, Mỹ, Trung Hoa . . .
Phê bình thi pháp học đã mang đến sức sống mới cho phê bình văn học Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu cho rằng thi pháp học là phương pháp minh chứng cho thành quả thay đổi hệ hình nghiên cứu trong phê bình văn học.
Hiện nay trên thế giới, quan niệm về Nghệ thuật tạo hình, Nghệ thuật thị giác và Mỹ thuật mang ý nghĩa gần giống nhau. Nó bao gồm: hội họa, đồ họa, kiến trúc, điêu khắc, trang trí ứng dụng, video clip, sắp đặt v.v..Loại hình nghệ thuật này luôn xuất hiện bằng những hình ảnh (image) thu hút mắt nhìn và ngày càng mở rộng quan niệm, phương thức biểu hiện cũng như khai thác chất liệu. Tuy nhiên, để hiểu thế nào là nghệ thuật trong tranh, hoặc vẻ đẹp của một công trình nghệ thuật còn là câu hỏi đặt ra với nhiều người.
HÀ VĂN LƯỠNGPuskin không chỉ là nhà thơ Nga vĩ đại, nhà viết kịch có tiếng mà còn là nhà cải cách văn học lớn. Là người “khởi đầu của mọi khởi đầu” (M. Gorki) Puskin bước vào lĩnh vực văn xuôi với tư cách là một người cách tân trong văn học Nga những năm đầu thế kỷ. Những tác phẩm văn xuôi của ông đã đặt cơ sở vững chắc cho văn xuôi hiện thực và sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga, góp phần khẳng định những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc.