Mario Vargas Llosa - Nobel văn học 2010: Paris, nơi tôi đã trở thành nhà văn

14:26 17/12/2010
TRẦN HUYỀN SÂMTrong một nghiệp bút, hình như có tính quyết định bởi những cú sốc. Hoặc là cú sốc ái tình, hoặc là cú sốc chính trị, hoặc là sự thăng hoa của một miền ký ức nào đó ở tuổi hoa niên. Tiểu thuyết gia, chính trị gia Peru: Mario Vargas Llosa - người vừa được vinh danh giải Nobel văn học, dường như đã “chịu” cả ba cú sốc nói trên.

Nhà văn Mario Vargas Llosa - Ảnh: internet

Ngoài cuộc hôn nhân với “bà dì” hơn mình mười lăm tuổi, mà báo giới cho là vô đạo, vụ thất bại tranh cử tổng thống hồi năm 1990, mà kết cục là phải sang lánh nạn chính trị ở Tây Ban Nha, thì Paris - kinh đô nghệ thuật và trí tuệ đã đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của con người lừng danh này.


Paris - nơi nảy sinh những đam mê trong tôi

Mario Vargas Llosa khẳng định rằng, Paris chính là n
ơi ông đã trở thành nhà văn. Nơi mà ông đã tiếp thu tư tưởng triết học hiện sinh của Camus, Sartres, cũng như tinh thần tự do, nhân đạo của các nhà văn Pháp thế kỷ XIX. Cũng nơi đây, ông đã viết những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng, đánh dấu phong cách của một tài năng nghệ thuật, đặc biệt là tác phẩm La ville et les chiens, 1963 (Thành phố và những con cho). M.V.Llosa đã phơi bày sự thật trước công luận thế giới về một xã hội - chính trị hà khắc, tàn tệ của Peru những năm 50-60. Ngay lập tức, tác phẩm được đoạt giải Biblioteca Breve và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Tiếp theo đó là La Maison verte, 1966 (Ngôi nhà xanh), và đoạt ngay giải Rómulo Gallegos. Nói chung, danh tiếng văn chương của ông được biết đến, trước hết là ở Pháp, chứ không phải là Peru hay Tây Ban Nha. Từ những thập niên 70, ông đã trở thành nhà văn quen biết của độc giả Pháp.

Trả lời phóng viên báo chí, ông nói rằng: “Nếu như phải chọn một thành phố để sống, tôi sẽ chọn Luân Đôn. Nhưng Luân Đôn không phải là nơi nảy sinh trong tôi những đam mê sáng tạo, như tôi đã khám phá ở Paris. Bảy năm ở Paris đã có tính quyết định trong cuộc sống của tôi. Đấy là nơi tôi đã trở thành nhà văn, nơi tôi đã có những đam mê tình yêu… Quả thực, tôi không phóng đại, nếu như tôi nói rằng, tôi đã trải qua tất cả giấc mơ tuổi hoa niên ở Paris” (Lược dịch từ tiếng Pháp: Mario Vargas Llosa: Tự do và cuộc sống).(1)

M.V.Llosa sống và làm việc tại Paris trong khoảng thời gian từ năm 1959 đến 1966. Ông “vào vai” với tư cách là một phóng viên cho hãng thông tấn Pháp AFP, sau đó giảng dạy tiếng Tây Ban Nha ở các trường trung học. Đây chính là một thời kỳ diễn ra các cuộc tranh luận học thuật rất sôi động trên nhiều lĩnh vực như triết học, tôn giáo chính trị - xã hội; cũng là chốn “tụ tập” của các nhà tư tưởng châu Âu, đặc biệt là các chính trị gia đang lánh nạn chính trị. M.V.Llosa đã hẹn gặp các nhà trí thức nổi tiếng như Jean-Paul Sartre, Albert Camus, Simonne de Beauvoir… Với tư cách là một phóng viên, một nhà văn, ông đã có điều kiện tham dự các cuộc thảo luận thú vị và gay cấn về chính trị và nghệ thuật. Sống trong không khí sôi động của những năm tháng chuẩn bị cho cuộc bạo động tháng Năm - 1968 (một cuộc biểu tình lớn chưa từng có ở Paris, thay đổi căn bản các chính sách của nước Pháp); rõ ràng, M.V.Llosa có điều kiện để chiêm nghiệm các vấn đề của xã hội Peru. Phải chăng, tư tưởng chính trị phức tạp của ông được hình thành từ đây? Gạt bỏ những quan điểm cực đoan, Mario.V.Llosa, trên hết hướng đến tư tưởng tự do, tinh thần phản kháng quyết liệt của con người cá nhân.


Vì sao phải là V.Hugo?

Trước hết, đó là sự ảnh hưởng sâu sắc của V. Hugo. Trong một cuộc phỏng vấn của phóng viên báo Le Point, với tựa đề Hugo, les femmes et moi (V.Hugo, những người đàn bà và tôi), M.V.Llosa đã cho biết những ảnh hưởng sâu sắc của Hugo đối với tư tưởng sáng tác của mình: “Tôi đã đọc Les Misérapbles khi tôi còn rất trẻ. Cuốn sách này đã gây cho tôi một sự xúc động cực điểm, đến mức, tôi không thể đọc lại nó trong những năm sau. Tôi đã có những ý tưởng tuyệt vời về cuốn tiểu thuyết này; và nó đã thay đổi cuộc sống của tôi. Tôi đã đọc lại tác phẩm này vào những năm 70… Đó không chỉ là một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu, mà còn là sự biện minh cho tinh thần nhân đạo của con người...”(2). Theo ông, V.Hugo được tôn thờ như một biểu tượng văn hóa thiêng liêng, là bởi ít có nhà văn nào trên thế giới, lại đặt ra những vấn đề về chính trị, xã hội, văn hóa, tôn giáo, nhất là nỗi đau và khát vọng của con người như trong tác phẩm của đại văn hào này. Không chỉ ảnh hưởng về tư tưởng sáng tác, M.V.Llosa còn dành riêng một công trình khảo cứu về V.Hugo dưới tựa đề: “Tentation de l’impossible” (tạm dịch Sự cám dỗ của điều kỳ dị(3). Cuốn sách là những nghiên cứu rất công phu của ông về V.Hugo qua tác phẩm Những người cùng khổ. M.V.Llosa đã làm sáng tỏ tư tưởng đạo đức, chính trị và tôn giáo của Hugo, dưới thời đại của đế chế Napoléon Bonaparte. Đặc biệt là vấn đề hiện thực và hư vô trong thế giới nghệ thuật của Hugo. Cuốn tiểu luận này được các nhà phê bình Pháp cho là một sự kiện văn học.

* V.Hugo và M.V.Llosa: những tuổi thơ không bình yên

Ngoài vấn đề văn chương, có lẽ Mario V.Llosa còn đồng cảm với V.Hugo trên hai phương diện: Tuổi ấu thơ không mấy bình yên và cuộc sống lưu vong. Anh em V.Hugo trải qua một tuổi thơ vừa ngọt ngào vừa cay đắng. Cha mẹ ly hôn. Anh em Hugo phải sống với mẹ - một người phụ nữ theo khuynh hướng Bảo Hoàng, với tư tưởng vừa phóng túng vừa nghiêm cẩn. Còn người cha - một thiếu tá trong quân đội đã trở thành đối tượng của lòng yêu thương và căm hận trong cảm thức tuổi thơ của V.Hugo (thậm chí, ông từng chối từ sự trợ cấp của cha). M.V.Llosa còn tệ hơn. Ông bị cha bỏ rơi từ khi còn mấy tháng tuổi. Rời Arequipa - nơi vừa sinh ra (1936), đứa trẻ “ngơ ngác” cùng với mẹ đến trang trại miền Bolivia của ông bà ngoại. Năm 1946, M.V.Llosa buộc phải về thủ đô Lima sống với cha. Và tại đây, cậu bé Llosa bị người cha độc đoán đưa vào học tại Học viện quân sự Léoncio Prado, để “triệt tiêu” ý định theo đuổi nghiệp văn chương. Một nghề nghiệp, mà theo ông ta là phù phiếm. Người cha trong mắt của Llosa là một bộ mặt lạnh lùng, thô bạo và độc đoán. Chân dung người cha được chuyển hóa vào những hình tượng khác nhau qua chủ đề về chính trị -xã hội.

* V.Hugo và M.V.Llosa: sáng tạo nghệ thuật bằng cảm thức lưu vong

Thế hệ của Mario Vargas Llosa là một thế hệ mang cảm thức lưu vong. Và hình như các nhà văn Nobel gần đây đều vậy. Trước V.Llosa, Hugo cũng phải sống lưu vong. V.Hugo đã phản ứng lại chính sách độc tài của Napoléon III và bị lưu đày gần hai mươi năm ở các nước như Bỉ, Anh. Ông đã viết bộ tiểu thuyết Những người khốn khổ trong những năm tháng sống lưu vong khốn khổ. Và nhờ người tình Juliette Drouet lưu giữ bản thảo, nếu không, có lẽ tác phẩm vĩ đại này đã không đến tay chúng ta ngày hôm nay. Tất nhiên,V.Hugo trở về Pháp trong niềm yêu mến đến mức tôn sùng của công chúng Paris. Bằng chứng là sinh nhật lần thứ 80, hàng ngàn người đổ xuống đại lộ D’Eylau để xưng tụng ông như một vị thánh. Mario Vargas Llosa thì bi đát hơn. Vụ tranh cử tổng thống 1990, khiến cho ông phải rời đất nước Peru - trước sự thù địch gay gắt với nhà chính trị độc tài Alberto Fujimo. Hầu hết, những tác phẩm của ông đều viết ở Pháp và Tây Ban Nha với một cảm thức của một người sống lưu vong như: La Maison verte - 1965, La Ville et les chiens - 1966, La tante Julia et le scribouillard - 1967, Conversation à la cathédrale - 1973, La Guerre de la fin du monde - 1980... Tuy nhiên, cũng chính vì vậy mà ông đã nhìn đất nước Peru ở những góc độ khác: sự thối nát, mục ruỗng, tàn tệ của bộ máy chính trị.


Với Flaubert và nàng Emma Bovary nổi loạn?

Theo Mario V.Llosa, Flaubert là bài học về sự khổ hạnh trong sáng tạo và sự nổi loạn về tình yêu tự do. Flaubert là một điển hình cho sự nỗ lực hết mình trong sáng tạo nghệ thuật. Đó là bài học về tài năng và sự kiếm tìm bản thân thông qua những “khổ ải”. Ông nói rằng, những cố gắng trong lao động nghệ thuật của Flaubert là bài học để ông vượt lên chính mình. Ông tạo lập cho mình một nguyên tắc lao động khổ hạnh (thức dậy lúc 5h và viết cho đến 14h). Ông cũng đã có một tiểu luận về Flaubert, được xuất bản từ năm 1975, được dịch sang tiếng Pháp với tựa đề Flaubert et Madame Bovary, 1978. Trong cuốn tiểu luận này, M.V.Llossa khẳng định, Flaubert chính là cha đẻ của Tiểu thuyết mới “le père du nouveau roman”(4). Flaubert đã phân hủy những yếu tố đông cứng của tiểu thuyết truyền thống như người kể chuyện, thời gian trần thuật, đặc biệt, đã kiến tạo nên những câu văn tuyệt vời, ẩn tàng tính đối thoại và độc thoại. Cũng chính vì vậy mà hình tượng Elma Bovary trở nên sinh động, nhiều chiều.

Phải chăng, sự nổi loạn của nàng Elma là hình ảnh gần gũi đối với người vợ đầu tiên của ông - mối tình say mê kỳ lạ mà ông đã chịu bao nhiêu búa rìu dư luận luận cũng như sự cấm đoán từ phía gia đình? Trong cuốn tiểu thuyết có tính tự truyện: La tante Julia et le scribouillard - 1967 (Dì Julie và gã cạo giấy. Bản dịch của Việt Vũ, 1986Dì Hulia và nhà văn quèn), M.V.Llosa đã mô tả hình tượng một phụ nữ có quan điểm phóng túng về tình yêu và hôn nhân. Dì Julia đã cuốn hút kỳ lạ đối với cậu bé Marito. Chàng sinh viên khoa luật 18 tuổi, mà dưới mắt dì là miệng còn bấm ra sữa, đã táo bạo hôn lên môi dì... (La tante Julia et le scribouillard-1967)(5).

Tất nhiên, trong cuộc đời của M.V.Llosa không chỉ là “nàng Elma nổi loạn”. Ông nói rằng, đàn bà luôn quan trọng và không thể thiếu trong cuộc đời của ông. Không phải lúc mười 19 tuổi, ông mới biết “mùi đàn bà” qua dì Julia (32 tuổi). Đáp lại câu hỏi của phóng viên báo Le Loin.fr: “Lần đầu tiên, ông đã bị ái tình đánh gục như thế nào?”, Mario tiết lộ: “Đó là lúc lên 10, ở Bolivie, một nghệ sĩ xiếc; tôi không nhớ rõ khuôn mặt cô ta, nhưng thân thể rất đẹp, được bó chặt trong chiếc áo tắm màu hồng. Đó là lần đầu tiên, tôi đã mơ đến đàn bà”(2). Hiện Mario V.Llosa sống với Partria - người vợ thứ hai, sau cuộc hôn nhân tai tiếng với Juilia.


Khi một tiểu thuyết gia nói tiếng nói chính trị gia, đó là con người văn chương anh ta đang hành động 

Thông thường, chính trị đối kháng với văn chương. Nhất là những thể chế kìm hãm tự do và hạ thấp giá trị nhân văn của loài người. Tuy nhiên, cả hai đều song hành. Mario V.Llosa là một chứng nhân sinh động. Có phải nhờ vào “vụ thất bại” trên chính trường tranh cử tổng thống hồi năm 1990, mà Mario V.Llosa đã giật giải Nobel văn học danh giá? Ngược lại, có phải nhờ những dấn thân vào con đường chính trị mà Mario V.Llosa trở thành một tiểu thuyết gia sáng giá trên văn đàn châu Mỹ-latinh? Có lẽ cả hai. Trả lời giới báo truyền thông châu Âu, M.V.Llosa cho rằng: nhà văn là phải dấn thân; văn học phải gắn với chính trị, hư cấu tưởng tượng phải gắn với hiện thực và trải nghiệm. Văn chương có thể là một công cụ góp phần kiến tạo nên một xã hội tự do, nhưng cũng có thể có khả năng phá hủy nó. Khi một tiểu thuyết gia nói tiếng nói của một chính trị gia, đó là lúc, con người văn chương anh ta đang hành động (Mario Vargas Llosa: Tự do và cuộc sống, Nguồn tiếng Pháp Mario Vargas Llosa. La liberté et la vie http://www.nonfiction.fr)(1).

Nếu tôi không nhầm thì Mario V.Llosa là trường hợp thứ hai trên thế giới - nhờ thất bại thảm hại trên chính trường chính trị mà thành danh trên lĩnh vực văn chương. Đó là nhà thơ lãng mạn Pháp nổi tiếng Lamartine (1790-1869). Lamartine từng thất bại trước đối thủ lừng danh là Napoléon Bonaparte. Và nhờ sự kiện này, Lamartine vùi đầu vào thế giới thi ca và trở thành một nhà thơ lớn của trào lưu lãng mạn Pháp thế kỷ XIX. Giờ đây, người đời chỉ nhớ đến tập “Trầm tư thơ ca”, còn mấy ai quan tâm đến một chính trị gia Lamartine? Vậy thì, rõ ràng văn chương có giá trị bền lâu hơn chính trị? Có phải Mario V.Llosa sẽ không thể đoạt giải Nobel, nếu ông đắc cử tổng thống?

Sự kiện đoạt giải Nobel của Mario Varga Llosa đã làm sống dậy làn sóng văn chương châu Mỹ-latinh, vốn đã châm ngòi từ lâu và bùng nổ hơn hai mươi năm qua G.Marquez. Cũng vậy, người Tây Ban Nha rất đỗi tự hào vì đã khẳng định được sức mạnh và sự quyến rũ của ngôn ngữ dân tộc mình. Cùng với những giải thưởng danh giá như Cervantes (1994), Jérusalème (1995), giải Nobel văn học 2010 đã đưa tên tuổi Mario Vargas LLosa lên vị trị hàng đầu của những cây bút sáng giá ở châu Âu. Tất nhiên, tư tưởng chính trị phức tạp của ông là vấn đề còn phải bàn cãi. 

T.H.S
(261/11-10)



------------
(1) Mario Vargas Llosa, La liberté et la vie, http://www.nonfiction.fr/article).
(2) V.Hugo, les femmes et moi, Le Point.fr, http://www.lepoint.fr).
3. Mario Vargas Llosa, Victor Hugo et “Les Misérables”.
http://www.monde-diplomatique.fr
(4) Flaubert et Madame Bovary,
http://livres.fluctuat.net/mario-vargas-llosa/livres/l-orgie-perpetuelle-flaubert-et-madame-bovary/
(5) La tía Julia y el escribidor, 1977 (La tante Julia et le scribouillard, 1980, Éditions Gallimard, Paris, France). Chuyển dịch tiếng Pháp bởi Albert Bensoussan.
Bạn có thể vào nguồn này để xem trọn bộ filme: filmehttp://www.ameriquelatine.msh-paris.fr






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

  • THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.