Nhà văn Mario Vargas Llosa - Ảnh: internet
Ngoài cuộc hôn nhân với “bà dì” hơn mình mười lăm tuổi, mà báo giới cho là vô đạo, vụ thất bại tranh cử tổng thống hồi năm 1990, mà kết cục là phải sang lánh nạn chính trị ở Tây Ban Nha, thì Paris - kinh đô nghệ thuật và trí tuệ đã đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của con người lừng danh này. Paris - nơi nảy sinh những đam mê trong tôi Mario Vargas Llosa khẳng định rằng, Paris chính là nơi ông đã trở thành nhà văn. Nơi mà ông đã tiếp thu tư tưởng triết học hiện sinh của Camus, Sartres, cũng như tinh thần tự do, nhân đạo của các nhà văn Pháp thế kỷ XIX. Cũng nơi đây, ông đã viết những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng, đánh dấu phong cách của một tài năng nghệ thuật, đặc biệt là tác phẩm La ville et les chiens, 1963 (Thành phố và những con cho). M.V.Llosa đã phơi bày sự thật trước công luận thế giới về một xã hội - chính trị hà khắc, tàn tệ của Peru những năm 50-60. Ngay lập tức, tác phẩm được đoạt giải Biblioteca Breve và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Tiếp theo đó là La Maison verte, 1966 (Ngôi nhà xanh), và đoạt ngay giải Rómulo Gallegos. Nói chung, danh tiếng văn chương của ông được biết đến, trước hết là ở Pháp, chứ không phải là Peru hay Tây Ban Nha. Từ những thập niên 70, ông đã trở thành nhà văn quen biết của độc giả Pháp. Trả lời phóng viên báo chí, ông nói rằng: “Nếu như phải chọn một thành phố để sống, tôi sẽ chọn Luân Đôn. Nhưng Luân Đôn không phải là nơi nảy sinh trong tôi những đam mê sáng tạo, như tôi đã khám phá ở Paris. Bảy năm ở Paris đã có tính quyết định trong cuộc sống của tôi. Đấy là nơi tôi đã trở thành nhà văn, nơi tôi đã có những đam mê tình yêu… Quả thực, tôi không phóng đại, nếu như tôi nói rằng, tôi đã trải qua tất cả giấc mơ tuổi hoa niên ở Paris” (Lược dịch từ tiếng Pháp: Mario Vargas Llosa: Tự do và cuộc sống).(1) M.V.Llosa sống và làm việc tại Paris trong khoảng thời gian từ năm 1959 đến 1966. Ông “vào vai” với tư cách là một phóng viên cho hãng thông tấn Pháp AFP, sau đó giảng dạy tiếng Tây Ban Nha ở các trường trung học. Đây chính là một thời kỳ diễn ra các cuộc tranh luận học thuật rất sôi động trên nhiều lĩnh vực như triết học, tôn giáo chính trị - xã hội; cũng là chốn “tụ tập” của các nhà tư tưởng châu Âu, đặc biệt là các chính trị gia đang lánh nạn chính trị. M.V.Llosa đã hẹn gặp các nhà trí thức nổi tiếng như Jean-Paul Sartre, Albert Camus, Simonne de Beauvoir… Với tư cách là một phóng viên, một nhà văn, ông đã có điều kiện tham dự các cuộc thảo luận thú vị và gay cấn về chính trị và nghệ thuật. Sống trong không khí sôi động của những năm tháng chuẩn bị cho cuộc bạo động tháng Năm - 1968 (một cuộc biểu tình lớn chưa từng có ở Paris, thay đổi căn bản các chính sách của nước Pháp); rõ ràng, M.V.Llosa có điều kiện để chiêm nghiệm các vấn đề của xã hội Peru. Phải chăng, tư tưởng chính trị phức tạp của ông được hình thành từ đây? Gạt bỏ những quan điểm cực đoan, Mario.V.Llosa, trên hết hướng đến tư tưởng tự do, tinh thần phản kháng quyết liệt của con người cá nhân. Vì sao phải là V.Hugo? Trước hết, đó là sự ảnh hưởng sâu sắc của V. Hugo. Trong một cuộc phỏng vấn của phóng viên báo Le Point, với tựa đề Hugo, les femmes et moi (V.Hugo, những người đàn bà và tôi), M.V.Llosa đã cho biết những ảnh hưởng sâu sắc của Hugo đối với tư tưởng sáng tác của mình: “Tôi đã đọc Les Misérapbles khi tôi còn rất trẻ. Cuốn sách này đã gây cho tôi một sự xúc động cực điểm, đến mức, tôi không thể đọc lại nó trong những năm sau. Tôi đã có những ý tưởng tuyệt vời về cuốn tiểu thuyết này; và nó đã thay đổi cuộc sống của tôi. Tôi đã đọc lại tác phẩm này vào những năm 70… Đó không chỉ là một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu, mà còn là sự biện minh cho tinh thần nhân đạo của con người...”(2). Theo ông, V.Hugo được tôn thờ như một biểu tượng văn hóa thiêng liêng, là bởi ít có nhà văn nào trên thế giới, lại đặt ra những vấn đề về chính trị, xã hội, văn hóa, tôn giáo, nhất là nỗi đau và khát vọng của con người như trong tác phẩm của đại văn hào này. Không chỉ ảnh hưởng về tư tưởng sáng tác, M.V.Llosa còn dành riêng một công trình khảo cứu về V.Hugo dưới tựa đề: “Tentation de l’impossible” (tạm dịch Sự cám dỗ của điều kỳ dị(3). Cuốn sách là những nghiên cứu rất công phu của ông về V.Hugo qua tác phẩm Những người cùng khổ. M.V.Llosa đã làm sáng tỏ tư tưởng đạo đức, chính trị và tôn giáo của Hugo, dưới thời đại của đế chế Napoléon Bonaparte. Đặc biệt là vấn đề hiện thực và hư vô trong thế giới nghệ thuật của Hugo. Cuốn tiểu luận này được các nhà phê bình Pháp cho là một sự kiện văn học. * V.Hugo và M.V.Llosa: những tuổi thơ không bình yên Ngoài vấn đề văn chương, có lẽ Mario V.Llosa còn đồng cảm với V.Hugo trên hai phương diện: Tuổi ấu thơ không mấy bình yên và cuộc sống lưu vong. Anh em V.Hugo trải qua một tuổi thơ vừa ngọt ngào vừa cay đắng. Cha mẹ ly hôn. Anh em Hugo phải sống với mẹ - một người phụ nữ theo khuynh hướng Bảo Hoàng, với tư tưởng vừa phóng túng vừa nghiêm cẩn. Còn người cha - một thiếu tá trong quân đội đã trở thành đối tượng của lòng yêu thương và căm hận trong cảm thức tuổi thơ của V.Hugo (thậm chí, ông từng chối từ sự trợ cấp của cha). M.V.Llosa còn tệ hơn. Ông bị cha bỏ rơi từ khi còn mấy tháng tuổi. Rời Arequipa - nơi vừa sinh ra (1936), đứa trẻ “ngơ ngác” cùng với mẹ đến trang trại miền Bolivia của ông bà ngoại. Năm 1946, M.V.Llosa buộc phải về thủ đô Lima sống với cha. Và tại đây, cậu bé Llosa bị người cha độc đoán đưa vào học tại Học viện quân sự Léoncio Prado, để “triệt tiêu” ý định theo đuổi nghiệp văn chương. Một nghề nghiệp, mà theo ông ta là phù phiếm. Người cha trong mắt của Llosa là một bộ mặt lạnh lùng, thô bạo và độc đoán. Chân dung người cha được chuyển hóa vào những hình tượng khác nhau qua chủ đề về chính trị -xã hội. * V.Hugo và M.V.Llosa: sáng tạo nghệ thuật bằng cảm thức lưu vong Thế hệ của Mario Vargas Llosa là một thế hệ mang cảm thức lưu vong. Và hình như các nhà văn Nobel gần đây đều vậy. Trước V.Llosa, Hugo cũng phải sống lưu vong. V.Hugo đã phản ứng lại chính sách độc tài của Napoléon III và bị lưu đày gần hai mươi năm ở các nước như Bỉ, Anh. Ông đã viết bộ tiểu thuyết Những người khốn khổ trong những năm tháng sống lưu vong khốn khổ. Và nhờ người tình Juliette Drouet lưu giữ bản thảo, nếu không, có lẽ tác phẩm vĩ đại này đã không đến tay chúng ta ngày hôm nay. Tất nhiên,V.Hugo trở về Pháp trong niềm yêu mến đến mức tôn sùng của công chúng Paris. Bằng chứng là sinh nhật lần thứ 80, hàng ngàn người đổ xuống đại lộ D’Eylau để xưng tụng ông như một vị thánh. Mario Vargas Llosa thì bi đát hơn. Vụ tranh cử tổng thống 1990, khiến cho ông phải rời đất nước Peru - trước sự thù địch gay gắt với nhà chính trị độc tài Alberto Fujimo. Hầu hết, những tác phẩm của ông đều viết ở Pháp và Tây Ban Nha với một cảm thức của một người sống lưu vong như: La Maison verte - 1965, La Ville et les chiens - 1966, La tante Julia et le scribouillard - 1967, Conversation à la cathédrale - 1973, La Guerre de la fin du monde - 1980... Tuy nhiên, cũng chính vì vậy mà ông đã nhìn đất nước Peru ở những góc độ khác: sự thối nát, mục ruỗng, tàn tệ của bộ máy chính trị. Với Flaubert và nàng Emma Bovary nổi loạn? Theo Mario V.Llosa, Flaubert là bài học về sự khổ hạnh trong sáng tạo và sự nổi loạn về tình yêu tự do. Flaubert là một điển hình cho sự nỗ lực hết mình trong sáng tạo nghệ thuật. Đó là bài học về tài năng và sự kiếm tìm bản thân thông qua những “khổ ải”. Ông nói rằng, những cố gắng trong lao động nghệ thuật của Flaubert là bài học để ông vượt lên chính mình. Ông tạo lập cho mình một nguyên tắc lao động khổ hạnh (thức dậy lúc 5h và viết cho đến 14h). Ông cũng đã có một tiểu luận về Flaubert, được xuất bản từ năm 1975, được dịch sang tiếng Pháp với tựa đề Flaubert et Madame Bovary, 1978. Trong cuốn tiểu luận này, M.V.Llossa khẳng định, Flaubert chính là cha đẻ của Tiểu thuyết mới “le père du nouveau roman”(4). Flaubert đã phân hủy những yếu tố đông cứng của tiểu thuyết truyền thống như người kể chuyện, thời gian trần thuật, đặc biệt, đã kiến tạo nên những câu văn tuyệt vời, ẩn tàng tính đối thoại và độc thoại. Cũng chính vì vậy mà hình tượng Elma Bovary trở nên sinh động, nhiều chiều. Phải chăng, sự nổi loạn của nàng Elma là hình ảnh gần gũi đối với người vợ đầu tiên của ông - mối tình say mê kỳ lạ mà ông đã chịu bao nhiêu búa rìu dư luận luận cũng như sự cấm đoán từ phía gia đình? Trong cuốn tiểu thuyết có tính tự truyện: La tante Julia et le scribouillard - 1967 (Dì Julie và gã cạo giấy. Bản dịch của Việt Vũ, 1986 là Dì Hulia và nhà văn quèn), M.V.Llosa đã mô tả hình tượng một phụ nữ có quan điểm phóng túng về tình yêu và hôn nhân. Dì Julia đã cuốn hút kỳ lạ đối với cậu bé Marito. Chàng sinh viên khoa luật 18 tuổi, mà dưới mắt dì là miệng còn bấm ra sữa, đã táo bạo hôn lên môi dì... (La tante Julia et le scribouillard-1967)(5). Tất nhiên, trong cuộc đời của M.V.Llosa không chỉ là “nàng Elma nổi loạn”. Ông nói rằng, đàn bà luôn quan trọng và không thể thiếu trong cuộc đời của ông. Không phải lúc mười 19 tuổi, ông mới biết “mùi đàn bà” qua dì Julia (32 tuổi). Đáp lại câu hỏi của phóng viên báo Le Loin.fr: “Lần đầu tiên, ông đã bị ái tình đánh gục như thế nào?”, Mario tiết lộ: “Đó là lúc lên 10, ở Bolivie, một nghệ sĩ xiếc; tôi không nhớ rõ khuôn mặt cô ta, nhưng thân thể rất đẹp, được bó chặt trong chiếc áo tắm màu hồng. Đó là lần đầu tiên, tôi đã mơ đến đàn bà”(2). Hiện Mario V.Llosa sống với Partria - người vợ thứ hai, sau cuộc hôn nhân tai tiếng với Juilia. Khi một tiểu thuyết gia nói tiếng nói chính trị gia, đó là con người văn chương anh ta đang hành động Thông thường, chính trị đối kháng với văn chương. Nhất là những thể chế kìm hãm tự do và hạ thấp giá trị nhân văn của loài người. Tuy nhiên, cả hai đều song hành. Mario V.Llosa là một chứng nhân sinh động. Có phải nhờ vào “vụ thất bại” trên chính trường tranh cử tổng thống hồi năm 1990, mà Mario V.Llosa đã giật giải Nobel văn học danh giá? Ngược lại, có phải nhờ những dấn thân vào con đường chính trị mà Mario V.Llosa trở thành một tiểu thuyết gia sáng giá trên văn đàn châu Mỹ-latinh? Có lẽ cả hai. Trả lời giới báo truyền thông châu Âu, M.V.Llosa cho rằng: nhà văn là phải dấn thân; văn học phải gắn với chính trị, hư cấu tưởng tượng phải gắn với hiện thực và trải nghiệm. Văn chương có thể là một công cụ góp phần kiến tạo nên một xã hội tự do, nhưng cũng có thể có khả năng phá hủy nó. Khi một tiểu thuyết gia nói tiếng nói của một chính trị gia, đó là lúc, con người văn chương anh ta đang hành động (Mario Vargas Llosa: Tự do và cuộc sống, Nguồn tiếng Pháp Mario Vargas Llosa. La liberté et la vie http://www.nonfiction.fr)(1). Nếu tôi không nhầm thì Mario V.Llosa là trường hợp thứ hai trên thế giới - nhờ thất bại thảm hại trên chính trường chính trị mà thành danh trên lĩnh vực văn chương. Đó là nhà thơ lãng mạn Pháp nổi tiếng Lamartine (1790-1869). Lamartine từng thất bại trước đối thủ lừng danh là Napoléon Bonaparte. Và nhờ sự kiện này, Lamartine vùi đầu vào thế giới thi ca và trở thành một nhà thơ lớn của trào lưu lãng mạn Pháp thế kỷ XIX. Giờ đây, người đời chỉ nhớ đến tập “Trầm tư thơ ca”, còn mấy ai quan tâm đến một chính trị gia Lamartine? Vậy thì, rõ ràng văn chương có giá trị bền lâu hơn chính trị? Có phải Mario V.Llosa sẽ không thể đoạt giải Nobel, nếu ông đắc cử tổng thống? Sự kiện đoạt giải Nobel của Mario Varga Llosa đã làm sống dậy làn sóng văn chương châu Mỹ-latinh, vốn đã châm ngòi từ lâu và bùng nổ hơn hai mươi năm qua G.Marquez. Cũng vậy, người Tây Ban Nha rất đỗi tự hào vì đã khẳng định được sức mạnh và sự quyến rũ của ngôn ngữ dân tộc mình. Cùng với những giải thưởng danh giá như Cervantes (1994), Jérusalème (1995), giải Nobel văn học 2010 đã đưa tên tuổi Mario Vargas LLosa lên vị trị hàng đầu của những cây bút sáng giá ở châu Âu. Tất nhiên, tư tưởng chính trị phức tạp của ông là vấn đề còn phải bàn cãi. T.H.S (261/11-10) ------------ (1) Mario Vargas Llosa, La liberté et la vie, http://www.nonfiction.fr/article). (2) V.Hugo, les femmes et moi, Le Point.fr, http://www.lepoint.fr). 3. Mario Vargas Llosa, Victor Hugo et “Les Misérables”. http://www.monde-diplomatique.fr (4) Flaubert et Madame Bovary, http://livres.fluctuat.net/mario-vargas-llosa/livres/l-orgie-perpetuelle-flaubert-et-madame-bovary/ (5) La tía Julia y el escribidor, 1977 (La tante Julia et le scribouillard, 1980, Éditions Gallimard, Paris, France). Chuyển dịch tiếng Pháp bởi Albert Bensoussan. Bạn có thể vào nguồn này để xem trọn bộ filme: filmehttp://www.ameriquelatine.msh-paris.fr |
HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).
THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.
NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...
TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!
HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.
MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.
NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.
ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.
NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.
TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...
NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.
MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.
TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.
HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.