TRẦN BẢO ĐỊNH
Một
Sông Bảo Định có nhiều chi lưu, một trong những chi lưu đó là rạch Bà Tàu. Thủy lộ con rạch lớn ròng tùy thuộc con nước rong kém và nó chảy cũng chẳng thẳng thớm gì cho lắm, có đoạn ngoằn ngoèo cong xoắn.
Minh họa: Nhím
Hơn nửa thế kỷ trước, thím Bảy tính nhẩm đã về làm dâu họ Trần chí ít những hai mươi năm. Thời gian đủ độ dài để thím trở thành người bổn xứ quê chồng.
Tuy tiếng là gái Tân Hòa, xứ sở Mắm tôm chà nổi tiếng trước thời Phạm Thị Hằng nghe lời cha lấy Nguyễn Phúc Miêu Tông(1), nhưng thím chẳng rành việc làm mắm tôm chà. Thím phân bua:
- Má chỉ dạy nghề gia truyền cho con dâu, chớ không dạy cho con gái!
Nghĩ cũng lạ, song có lẽ, không lạ bằng chuyện gốc gác ba má của thím vốn quê nội ở làng Truồi, nơi sơn thủy hữu tình. Hữu tình đến đỗi:
“Xứ Truồi ngọt mít thơm dâu
Anh đi làm rể ở lâu không về’’ (Ca dao).
Và, quê ngoại ở chợ Cầu Hai, cách quê nội đôi mươi cây số, cách thành phố Huế về hướng Nam gấp đôi khoảng cách quê nội. Trời phú, thiên nhiên đãi tôm, cá, cua... từ phá Tam Giang hay đầm Cầu Hai đều có mặt tại chợ. Nhất là cua gạch chợ Cầu Hai vỏ mỏng, gạch đỏ au, nổi tiếng trong Nam ngoài Bắc; riêng tôm đất, dù “cứt lộn đầu’’ nhưng làm ra đặc sản tôm chua trứ danh xứ Huế. Thím Bảy hãnh diện và từng khoe:
- Hễ nhắc tới cố thổ gia tộc của mình, thím không thể không nhắc “Cua gạch Cầu Hai, tôm chua kèm thịt luộc, dưa giá’’!
Tôi tin điều thím nói. Bởi lẽ thường, món ăn ngon khiến người ta nhớ lâu. Tò mò tôi hỏi thím:
- Thưa thím! Vậy chớ, ngoài đó có mần món tôm chà như trong mình không, thím?
Thím Bảy cười vả lã:
- Bà cụ đẻ thím ở Tân Hòa, ngoài đó có mần món tôm chà hay không thì thím chả biết!
Rồi, thím nói thêm:
- Phải đợi tới lúc có chồng về rạch Bà Tàu, thím mới tập tành mần mắm tôm chà do má của con chỉ dẫn.
Tháng mười trở đi, tôm đất vô “mùa rộ cứng’’ - nói theo phương ngữ rạch Bà Tàu, nhứt là ngày đầu con nước mồng một, mồng năm và mồng mười trong tháng. Nói tôm đất để không lầm lẩn với tôm thẻ, tôm sú, tôm càng xanh... và cũng là, nói theo cách nhà quê, nhằm phân biệt rạch ròi giữa tôm đồng sống tự do ngoài thiên nhiên với tôm lai tạo giống nuôi trong ao hồ tù túng. Tôm đất vỏ mỏng, thịt mềm, ngọt và dai chẳng thua gì thịt cua. Nó sống bầy đàn không quen sống đơn lẻ. Cho nên, dân rạch Bà Tàu bắt tôm đất bằng rổ, không ai bắt bằng tay từng con bao giờ.
Mỗi miền đất đều có khả năng sanh ra con tôm đất, mang tính đặc thù riêng của miền đất đó. Tôm đất do đất sanh ra, nó sống vì nước và nhờ nước mà nó sống. Từ nước, con tôm đất ăn phiêu sinh vật phù du, hút tinh túy càn khôn mà sinh sôi nẩy nở. Đặc biệt, tôm đất không có con giống.
Hừng đông chưa kịp mồi nắng, tôi bơi xuồng đi đổ nò, lọp đặc tôm đất bắt thấy mê và phát ghiền. Tôm huơ râu đỏ nước mặt rạch như mây rán đỏ trời ban mai.
“Con tôm nhảy ngọn nước ròng
Em chẳng lấy chồng ở vậy sao đang’’ (Hò huê tình).
Chắc là thím Bảy xúi Hai Đực hò ướm thử lòng, tôi nghĩ vậy! Hai Đực bạn thân của chú Bảy nên tôi gọi Hai Đực bằng vai vế chú; chớ đời nào, Hai Đực ngang tuổi chú Bảy chỉ hơn tôi nửa chục con giáp nếu tính một chục mười hai, dám bạo gan bạo miệng thả dê qua vườn so đũa của tôi đúng mùa bông trổ.
Má mượn chú Hai ở lại phụ thím Bảy rửa sạch, cắt đầu đóng tôm đất do tôi mang về.
- Liếng! Con vô bếp lấy hủ rượu ngâm muối hột đem ra cho thím Bảy với thằng Hai tẩm ướp tôm.
Rồi, má giục:
- Lẹ lên con!
Tôi vừa đi vừa tức cười, bởi nghe má nhắc chừng thím Bảy, nghĩa là chị dâu nhắc em dâu:
- Đừng lơ là để con tôm thẻ mạo danh con tôm đất, nha thím Bảy!
- Có em đây, chị Tư lo gì!
Anh Hai nhảy ra tiếp lời thay thím Bảy. Tôi nghĩ cái chú này hay chàng ràng cản mũi xuồng.
Má đương chuẩn bị cối đá để quết tôm, nghe chú Hai nói, má la:
- Hôm trước, cũng mấy đứa lựa tôm đất hóa ra tôm thẻ. Bà nội con Liếng đã cằn nhằn một trận, bộ chưa tởn sao?
Và, má nhắc lại:
- Tôm thẻ thịt nhạt, mùi tanh, chưn trắng... Để nó lộn vô mắm tôm chà, coi như mắm mất hương vị.
Tiếng chày quết tôm hòa nhịp tiếng cười giòn tan của mọi người, tạo không khí vui như ngày Tết. Chú Hai nổi hứng, cất giọng nói vè, báo hại đám con nít bu lại nghễnh tai nghe khoái chí.
“...Đầu lớn chôm bôm
là con tôm tít
Bắt người ăn thịt
là con tôm hùm
Ăn ở bụi lùm
là con tôm cỏ
Bắt bỏ vào rọ
là con tôm lươn
Gánh đất lấp đường
là con tôm đất (Vè con tôm).
Nội nằm võng ở nhà trên, nghe tiếng đặng tiếng được tưởng rằng thím Bảy, chú Hai và tôi đọc lô tô mà bỏ bê việc quết tôm. Bà ngồi dậy, nói vọng xuống nhà dưới:
- Mấy đứa không lo quết tôm để kịp phơi nắng.
Nắng ban trưa nhảy nhót ngoài sân gạch hắt nóng rát mặt mọi người!
Hai
Tôi vốn mồ côi cha từ nhỏ, năm anh em có người chết khi vừa lọt lòng, có người vừa mới tượng hình hài đã chết khô trong bụng má. Nhiều lúc má nói giỡn: “Năm bỏ bốn lấy một, trời còn thương má!’’ Dù tôi là gái, nhưng cả nhà nội cưng tôi như trứng mỏng, bởi chú thím bảy lấy nhau lâu lắm rồi vẫn chưa có con. Mấy bà sồn sồn trong xóm nói lén với nhau: “Vợ thằng Bảy nó bị nâng’’.
Sau cái chết tức tưởi của chú Bảy đạp trái ở ngọn rạch lúc mò bắt tôm đất, bà nội buồn rầu xuống tinh thần sanh bệnh. Cảnh nhà nội sa sút dần... Nhà không có đàn ông, chuyện chi nội cũng mượn chú Hai gánh vác. Nội thường nói:
- Thấy thằng Hai, coi như tau thấy thằng Bảy!
Hồi đương thời, bà nội đẻ một tăng sáu người con, sống hai chết bốn lúc nội chưa tròn tuổi bốn mươi. Giờ thì, cả ba tôi và chú Bảy được bốn người anh em đã chết trước dắt dây dẫn theo. Ở đời, thường khi thiên hạ xót con đẻ hơn con dâu nên mới có câu:
“Trời mưa ướt lá da bì
Con mẹ, mẹ xót, xót gì con dâu’’ (Ca dao).
Trái lại, với nội tôi thì khác. Nội xót con nội đẻ bao nhiêu, nội xót con dâu bấy nhiêu và có lắm lúc, tôi cảm giác nội thương thím hơn chú Bảy. Má tôi cũng giống nội, không thương sao má nói:
“Gió đưa cây trúc ngã quỳ
Ba năm chực tiết còn gì là Xuân’’ (Ca dao).
Thời gian còn trong vòng chưa tới giỗ hết, nội gọi là đại tường, còn má tôi thì gọi mãn khó; thím Bảy tự bó mình theo khuôn phép nhà chồng. Biết thím thích coi hát bội, mấy đêm đình làng An Vĩnh Ngãi rước gánh hát bội Nam Đồng về hát cúng lễ Kỳ Yên, thím nhất định không đi là không đi. Chẳng biết tâm trí của thím nghĩ gì, nhưng có điều, hàng ngày thím dồn sức học cách làm mắm tôm chà do má tôi tận tụy truyền nghề.
Má nói:
- Thím lấy chén ăn cơm làm chuẩn đơn vị đo lường đúng phân lượng để tôm không bị trở ươn.
Thím Bảy lấy nửa chén nếp Bà Bóng cấy trên đất biền ông Củ Nghệ ở xóm Bà Sòm, vo sạch và nấu thành cháo đặc. Rồi sau đó, má dặn thím dùng muỗng canh múc một muỗng muối diêm hòa bốn muỗng mật ong, trộn nửa chén củ giềng giã nhừ cùng một muỗng ớt tỏi xắt băm thiệt nhuyễn, một chén muối bọt. Tất cả khuấy đều tan thành chất hỗn hợp gia vị và nước cho mười chén tôm đất.
Nội vui ra mặt, thường đứng coi thím Bảy làm mắm và nội nói với con dâu:
- “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh’’ đó, nha con!
Mồ hôi tươm ướt lưng áo, thím thấy khỏe ra; có lẽ nhờ lời động viên đúng lúc của má chồng.
Bàn tay thím chà tôm lên mặt rá mạnh vì lực, nhẹ nhàng vì thoang thoát hơn hẳn bàn tay con gái. Má khen bàn tay của thím Bảy là sự kết tinh từ đất Truồi, nước Cầu Hai và người Tân Hòa nên hồ dễ mấy ai có được. Nhưng rồi, một thoáng buồn qua trong lòng, má thầm nghĩ: ‘’Hay là, vì vậy mà thím rơi vào cảnh hồng nhạn bạc phận’’!
- Chị ơi! Sao mình không lấy rổ mà lấy rá chà tôm, hả chị?
Thím thắc mắc hỏi má tôi.
- Rá lỗ khít, rổ lỗ lớn. Chà tôm bằng rá tuy lâu nhưng thịt tôm mau ra nước bột. Đôi khi nếu cần, mình đổ phần tôm đã chà trở lại rá để chà tiếp cho tới nước bột thịt tôm thiệt mịn.
Nội nhai trầu, đứng ngắm nghía từng hũ mắm tôm chà đậy kín được thím Bảy xếp thẳng thớm trên giàn cây phơi nắng. Nội nhắc thím Bảy:
- Nắng tốt như vầy, nếu con muốn mắm thơm và lẹ ăn thì con rang gạo vàng rồi giã mịn, thính mắm, dậy mùi thơm.
- Dạ. Thưa má, con phải thính bao nhiêu? - Thím Bảy dừng tay xếp hũ mắm, hỏi má chồng.
- Áng chừng một muỗng rưỡi tới hai muỗng canh đựng thính là đủ. Độ bốn năm ngày hoặc lâu lắm một tuần trở lại, mắm dậy mùi thơm là ăn.
Nội còn nói thêm:
- Đây là cách mần mắm tôm chà của người ở rạch Bà Tàu, còn ở nơi khác, chẳng hạn như Gò Công thì má không biết.
Ngày tháng trôi qua, thím Bảy nương mình dưới bóng má chồng; đồng thời, thím theo tôi bắt tôm đất và cùng chị dâu, làm mắm tôm chà để cố lãng quên nỗi buồn sương phụ của hai người đàn bà chung số phận.
Gần như thông lệ, ngày giỗ hết ở xóm rạch Bà Tàu thường nhắc, kể lể không bỏ sót một chi tiết nào hồi còn sống của người đã khuất. Nội nói:
- Nhắc nhớ và kể lể một lần trong giỗ hết rồi thôi. Sau đó, ít ai còn nhắc nhớ tới nữa, kể cả người thân!
Rồi, nội nói luôn cho mọi người cùng nghe:
- Xong lễ trừ phục, vợ thằng Bảy trở lại đời sống bình thường không kiêng kỵ như lúc có tang. Má mừng cho con dâu có được cái nghề làm mắm tôm chà theo kiểu xóm rạch Bà Tàu.
Nghe nội nói như một lời tuyên bố trước thân bằng quyến thuộc. Tôi hỏi má:
- Lễ trừ phục là lễ gì, hả má?
- Là lễ bỏ tang. Nghĩa là, thím Bảy đốt hết quần áo tang, khăn sô và những thứ có liên quan tới tang chế.
Bất ngờ, giọng nói của má tôi chùng xuống:
- Chuyện thím Bảy của con mần bây giờ, má đã mần hồi mười lăm năm trước, lúc con chưa đủ năm tuổi!
Tàn nhang, khói un chiều lãng đãng trên những vòm cây...
Ba
- Khi con ưng anh Bảy và làm dâu của má, là con hoàn toàn thuộc về nhà chồng. Cho dù ‘’Gánh cực mà đổ lên non/ Cong lưng mà chạy, cực còn theo sau’’ thì, con cũng chẳng thay lòng đổi dạ. Huống hồ giờ đây, má già yếu lại nay ốm mai đau... Con bao nỡ thối lui. Tội chết má ơi!
Thím Bảy nói trong nước mắt.
Thâm tâm nội muốn thả chim về rừng cũ, muốn con dâu của mình mạnh dạn bước đi bước nữa và biết đâu, bước nữa sau sẽ hạnh phúc. Với nội tôi, không khi nào có chuyện: “Mẹ chồng nàng dâu/ Chủ nhà, người ở thương nhau bao giờ’’. Nội nói:
- Nội coi con dâu là con gái và nếu, nội có con gái thì là con gái của người ta!
Nội thương má tôi bao nhiêu thì nội cũng thương thím Bảy bấy nhiêu và lắm lúc, nội thương thím Bảy có phần hơn. Tôi hỏi nội: “Sao lạ vậy, nội!’’ Nội rằng: “Dù gì má con còn có con, thím Bảy của con trơ trọi một mình!’’
Đêm tôi ngủ chung với nội để canh thức cho bà, nghe tiếng nội thở dài lòng tôi xốn xang cả ruột gan.
Rạch Bà Tàu trở nước tháng mười. Cánh đồng lúa An Thuận, Vĩnh Bình, Hòa Ngãi đã cắt gặt xong. Mùi rạ mới phản phất mùi bùn dậy mưa chiều, làm ngây ngây niềm nhớ nơi hai người đàn bà góa chồng đang chà tôm đất. Má tôi lúc nào cũng thương em dâu như thương em gái, chớ không như người đời thường nói: “Chị em dâu như bầu nước lạnh’’ hoặc giả “Rái nhau là chị em dâu’’. Thấy vậy, nội tôi yên lòng.
Năm đó, nội đã ngoài tám mươi tuổi đời. Một hôm nội kêu thím Bảy và má tôi lên nhà trên. Chắc là, có chuyện hệ trọng; tôi đoán mò, bởi nhà trên không phải chỗ để cho đàn bà, con gái.
- Mấy năm nay, má suy nghĩ lung lắm! Má còn sống chẳng nói gì, một mai má theo ông theo bà thì mấy đứa bây sẽ ra sao? Nhứt là con Bảy, tuổi hãy còn xuân phơi phới... Má không đành!
Gian nhà trở nên im ắng. Những sợi khói lượn cong từ đầu nhang đỏ lửa trên bàn thờ ông nội, dường như có cả ba và chú Bảy của tôi cùng lắng nghe lời bà nội nói. Bằng tấm lòng của mẹ, nội trao trọn vẹn tâm tư mình:
- Thằng Hai Đực nó là đứa con hoang, không biết ai đẻ ra nó rồi bỏ rơi ở gò ông Mới. Mợ tám Chờ cấy mướn đi ngang ngó thấy, lượm nó mang về nuôi. Lúc đó, má đương nằm cữ thằng Bảy, thương tình má cho thằng Đực bú thép. Lớn lên, hai đứa nó thân nhau tựa anh em ruột, chuyện nặng nhọc trong nhà hay ngoài rạch nó đều đỡ đần thằng Bảy. Từ ngày mợ Tám mất, nó sống cu ky, sớm hôm thui thủi và ngại tới nhà má vì nó sợ miệng đời thị phi.
Nội đốt thêm nhang lên bàn thờ ông nội. Gió chướng non bắt đầu thổi nhè nhẹ mái hiên. Đột nhiên, nội tằng hắng:
- Má tính vầy, hai đứa con gái của má nghe có đặng không?
Chẳng đợi má tôi hoặc thím Bảy đáp lời, nội nói luôn:
- Anh chị sui gia với má ở Tân Hòa đã quy tiên, quyến thuộc của vợ thằng Bảy cũng chẳng còn ai. Nói gốc gác Thừa Thiên là nói vậy, chớ ở Truồi hay chợ Cầu Hai chẳng còn ai biết ai và nếu, còn là còn nước cốt Huế trong xương tủy của con Bảy... Má định thế quyền anh chị sui và thằng Bảy...
Nói tới đó, nội nghẹn lời!
Má tôi lấy khăn vắt trên vai lau nước mắt nội, má nói:
- Lúc nào tụi con cũng nghĩ má là mẹ đẻ, là đất sanh con tôm nên gọi tôm đất. Má đừng nghĩ ngợi nhiều mà hao mòn sức khỏe!
Ôm nội, thím Bảy ứa nước mắt. Nội cố cười hắt bóng bấc lụn, rồi nói:
- Má con Liếng đã đi hết một ngươn đời(2), sẽ là người thay má quán xuyến gia đình nầy.
Nội nắm tay thím Bảy, căn dặn:
- Mọi chuyện trong nhà, con làm theo lời chị dâu và thương cháu như thương con ruột.
Ngồi hóng chuyện, nghe nội nói, tôi đâm ra lo điềm gở.
Nội tỉnh táo lập lại lời nói còn bỏ dở:
- ...Má định thế quyền anh chị sui và thằng Bảy... cho phép vợ thằng Bảy cùng sánh bước với thằng Hai Đực đi đoạn đường còn lại của cuộc đời. Được vậy, má nhắm mắt cũng mãn nguyện!
Thím Bảy chết điếng, chuyện quá bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng đối với thím.
Nội têm trầu cau kèm chút vôi trong ống ngoáy đồng, nước cốt trầu ửng hồng lên mặt ống ngoái. Nội biểu thím Bảy ngồi xích lại gần nội.
- Tuy mắm tôm chà rạch Bà Tàu không bì kịp mắm tôm chà nơi con chào đời:
“Ai ơi về xứ Tân Hòa
Cho tôi hủ mắm tôm chà Gò Công’’ (Ca dao).
Nhưng, cũng đủ cho con hộ thân trong cuộc sống. Vả lại, tính thằng Hai chịu thương chịu khó thì lo gì sau nầy tụi con thiếu đói, chẳng cơm ăn!
Ánh mắt nội toát ra nụ cười, một nụ cười hiền vượt lên bao tiếng cười từ cửa miệng thế gian.
Và, dường như có tiếng cu gáy đâu đó trên vòm tre ở bến nước rạch Bà Tàu!
T.B.Đ
(SHSDB26/09-2017)
......................................
(1) Tức Nghi Thiên Hoàng thái hậu hay còn gọi Từ Dũ Hoàng thái hậu (con gái Lễ bộ Thượng thư Đức quốc công Phạm Đăng Hưng) lấy vua Thiệu Trị.
(2) Theo dân gian, ngươn đời là sáu mươi năm.
JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).
PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.
PHẠM THỊ CÚC KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.
THÁI VŨ Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.
PHƯƠNG HÀ (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.
LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.
PHẠM THỊ CÚC Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…
LÊ VĨNH THÁI Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.
TRƯƠNG ĐÌNH MINH Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.
ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.
TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.
PHẠM THỊ ANH NGA Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.
TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.
CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...
NGUYỄN HỮU THÔNG Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)
PHAN TÂM (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.
LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách