GSTS Thái Kim Lan - donghuongtth.com
Mưa bụi Huế tháng ba, tưởng trời ươm nắng, vậy mà nắng chỉ được nửa ngày, chưa đủ một vòng tay choàng vai hứa hẹn ấm áp cho người trở lại. Qua đêm chưa kịp ngỡ ngàng với mồ hôi hâm hấp, gió bỗng trở, hơi mát lùa qua khe cửa bất ngờ, đến phải kéo tấm chăn đơn lên quá bờ vai. Buổi sáng nghe trời ủ nắng trong sương mù chập chùng. Có ai chợt nói “hôm ni không có nắng, e mưa”. Âm vang chữ “không nắng” liền theo với “e mưa”, như một nỗi e dè, so le không đồng hẳn nghĩa với nhau, hầu như giữa “không nắng và mưa”, có một trạng thái “e” lưng chừng, không mưa không nắng, vừa mưa vừa nắng, vừa le lói chút nắng bên song, lại vừa thao thức nhỏ nhẻ chút mát trời bên kia bờ dậu… Huế tháng ba đó! Nắng mưa như đan vào nhau ngỡ ngàng thành ảo hóa mùa xuân, làm cho mùa xuân ẩn hiện bất ngờ trong một thứ mưa tơ… mà người Huế thường gọi là “mưa bụi”. Gọi là mưa mà có mưa mô! Hãy ra sân ngửa mặt lên trời thì biết! Chẳng có giọt mưa nào lộp độp trên áo, cũng không hạt mưa nào nặng trĩu bết ướt tóc mai, cũng nỏ thấy màn mưa che mờ mi mắt, mà chỉ thấy một khoảng trời mờ ảo tưng bừng những hạt li ti bay chấp chới trong không. Nói là sương bay, e không đúng, nói là bụi phấn của những nàng tiên trên trời trong lúc điểm trang vô tình làm vỡ hộp phấn hồng thoa má tung tóe xuống trần gian, thì hóa ra nói quá lời, nói là hương bay từ rừng Trường sơn có muôn hoa đang ướm nụ gửi gió mang đến tận chợ thành, lại tựa như làm thơ không tưởng. Thôi thì cứ ngửa mặt đón cơn bụi mưa đang đùa giỡn giữa thinh không. Thì biết: họa hoằn ngỡ nhận được chút cảm giác chạm nhẹ của phấn mưa, nhẹ hơn một phần ngàn của mũi kim vừa đụng đến da, chưa kịp làm sửng sốt nhói đau đã tan biến trong hư vô, để lại một kích thích êm ái mơn man trên da mặt. Biết bao lần bụi mưa vô tình chạm mặt như thế - có thể suốt cả đời thiếu nữ hay cả đời thiếu phụ diễm hoa xứ Huế - mà vẫn chưa nhận ra mưa bụi Huế là duyên với nợ nơi vẻ đẹp giai nhân, mà giai nhân hoặc hững hờ hoặc hồn nhiên đã không nhận rõ tiếng tơ ai gửi đến cho mình, rằng bụi mưa là “phấn nụ” của trời xuân dành riêng tô đẹp nước da mịn màng thuần chất tự nhiên không son phấn của phụ nữ Huế một thời. Mới biết giữa mưa và mưa có nhiều tầng trời cách nhau nơi mỗi hạt long lanh trong bốn mùa trần ai “mưa bụi” Huế không giống “mưa phùn” Hà Nội, “mưa bấc” Hội An, ấy là chưa nói đến “mưa ngâu”, “mưa lũ”, “mưa rào”, “mưa đá”… và mỗi ca khúc mưa thật sự chỉ khác nhau nơi ngón tay thiên nhiên lựa giây chuốc phím hoài cảm trong giao hưởng với đất trời, với con người, để riêng dành cho mùa xuân ở Huế một giai điệu từ bi gửi đến muôn loài và vạn vật. Mưa xuân của Huế như một điệu đàn không giây, hầu như vô ngã đến tận cùng bản thể, trong đó âm vang tuyền là những rung động không lời, nhưng lại đầy mời gọi, thúc dục ra đi, hãy thong dong bước vào khung trời ảo hóa, bỏ gian phòng chật hẹp ẩm thấp của căn nhà tù túng, của cái tôi so đo hơn thiệt, bỏ lại đằng sau mọi náo nhiệt thị thành, mà rong chơi, lang thang trên các nẻo đường, trong khí trời êm mát, giẫm lên cỏ xanh đến tận cuối trời. Buổi sáng mặt trời chỉ nhen một đốm hồng bạc lóe nơi chân mây, rồi bỗng không gian như trải ra, tỏa rộng trùng trùng điệp điệp tới tấp những chấm mưa tung bay, tuồng như không một lần chấm đất, hay vừa mới chấm đất đã vụt bay trở lại giữa trời. Huế mờ ảo trong bụi mưa buổi sáng. Ánh nắng vừa bừng lên đã chùng xuống những gam màu dịu dàng trên những lùm sầu đông tím nhạt đó đây trên các nẻo đường. Màu tím của hoa lẫn trong mưa gây cảm giác mộng mị gọi hồn mộng du giữa thực và mộng. Hình như đi trong mưa nhìn lên hoa sầu đông líu ríu tụm vào nhau những đốm tím đốm trắng mơ hồ, mới rõ được tình của mưa và hoa chỉ là một: hoa đó mưa đó đồng màu đồng chất, miên man quyện vào nhau tạo nên ý xuân vô lượng làm nền cho vạn vật chan hòa bất tận… Ngay cả những loài hoa cao sang đã có lần bon chen trong những ngày Tết tưng bừng, bỗng dịu phần ghen tuông, mở tâm rộng lượng đưa hương tan hòa vào bụi mưa bay. Và mùa xuân thênh thang mở ngõ trù mật ân sủng cho muôn loài. Hương cau bỗng gần hương mộc, trà mi quấn quít bên hoa sim bất ngờ, hoa nhãn quê mùa thân mật với sứ nghiêm trang, bông cải vàng gửi bướm sang nụ tầm xuân, hoa cà bỗng mê hương lý, hương ngọc lan ngây ngất tìm hương khế cuối vườn, hoa mướp núp dưới lá chờ hương trà đượm sương trong giờ đối ẩm[1]… Trong mưa xuân đầy hương hoa như thế, trời Huế bàng bạc với màu xanh của lá chuối mượt mà, của lá tre um tùm, của mạ non trên biền lúa con gái, của lá đào lá bưởi biếc xanh, của lá nhãn lá vải, lá mít sum sê sắp sây trái… Một màu xanh mềm mại bồng bềnh chảy từ vườn ra sông, từ rừng ra suối, từ suối ra hồ, từ Lương Miêu qua đò Ba Bến, xuôi Tuần qua Linh Mụ, Kim Long về Đập Đá, Bao Vinh, Thế Lại, Ba Sình đổ về Thuận An, xóa nhòa mọi ngăn cách phân chia bờ bến đôi đường, đem lại vẻ thanh xuân cho Huế phơi phới hoa màu, ngọt mật hương sắc, một Huế đã tưởng theo định mệnh an bài luôn mãi là Huế “mùa đông thiếu áo, mùa hè thiếu cơm”… Có đi trong tháng ba, trong mưa bụi dịu dàng, mới cảm nghiệm được nguồn sống luân lưu nơi chốn thần kinh này như những mạch ngầm xuyên suốt cỏ cây, hoa lá, con người... Mưa bụi và Lisa Đi trốn cơn giá lạnh trời tây còn đầy tuyết trong tháng ba, cô bạn người Đức theo tôi về Huế. Lisa lần đầu tiên đến Việt Nam, cuộc đi trở nên cuộc tìm… nao nức đón nhận tất cả những điều mới lạ. Có một điều giản đơn mà Lisa khao khát và tôi đã tưởng rất dễ làm bạn vừa lòng: nắng ấm, thật nhiều nắng ấm! Tôi nói với Lisa, chi chơ “nắng” thì chán khối, chỉ sợ vài giờ sau bạn sẽ chịu không thấu cơn nóng “nóng nóng ghê” của xứ tôi mà thôi. Đặt chân xuống Sài Gòn, hơi ấm phừng cả mặt, chúng tôi nhìn nhau cười như thắng trận: “hết run rồi tuyết nhé, bên kia cứ lạnh đi, đóng băng đi, bên này ta ấm, ta đi dung dăng dung dẻ với đầu trần, vai trần, dép sandale…” Hôm sau ra Huế, trời nóng 35 độ, chui ra khỏi tàu bay, mồ hôi vã ra trong xe buýt, Lisa cười với tôi bằng con mắt biểu đồng tình với lời hứa đùa cợt, chi chơ “nắng thì tặng không” cho nàng, nàng có thể mang theo về Đức hàng tạ... Nhưng sáng hôm sau… Huế bỗng mưa… cơn mưa bụi tháng ba. Cuộc hành trình bỗng chia hai mỗi người một hướng. Tôi loay hoay với “cơn mưa bụi” đầy mê hoặc dĩ vãng, Lisa bên cạnh tôi suốt tuần chỉ chờ nắng lên… Có một cuộc thay hình đổi dạng nào đó trong mưa bụi, tôi không còn là tôi, tôi mê mải đi trong mưa, đi “hứng mưa”, và nói như sảng thứ ngôn ngữ bay bổng trên trời. Lisa không còn là Lisa hăm hở đón nắng, ôm nắng, hôn nắng, thở nắng… mà tiu nghỉu như con mèo mướp mắc mưa… Tôi đi vào mê lộ dĩ vãng, tìm từng dấu vết mưa bụi vương trên mắt, trên tóc trên vai, còn Lisa ăn bắp nấu mua dọc đường trong cơn mưa bụi, nhai ngấu nghiến mà chẳng thấy ngon. Lisa mở tròn đôi mắt nghe tôi tả ăn bắp Cồn vào tháng ba ngon đến bực nào, ngon đến “thành thơ”. Lisa chỉ biết bắp ăn vào nặng bụng và chẳng nghe mùi vị đặc biệt gì. Lisa không thấy thú vị chi khi ngồi trong mưa bên cạnh nồi bún bò bốc hơi bên lề đường ăn tô bún bò cay sặc sụa. Lisa nhăn mặt, còn tôi cười thú vị khi giọt mưa qua khe hở của tấm bạt che mưa rơi xuống đánh “tong” vào tô bún. Lisa không thể ngồi yên hàng giờ bên bờ sông Hương nhìn mưa bay trên sông, còn tôi thì cho đó là một ân huệ được nhìn cảnh sông trong mưa bụi… Lisa đi dạo trong khu vườn xuân có khóm hoa sim nở màu tím “hoa sim”, một trời lãng mạn của những trái tim Huế, mà chủ nhân khu vườn, một nhà thi sĩ kiêm họa sĩ, đã dày công lặn lội lên rừng bứng bụi sim cả gốc lẫn ngọn mang về trồng trong nhà. Sim mọc dại trên đồi hoang biền biệt lăn lóc thì dễ, đem về trồng trong vườn đài các, sim khật khừ đủ thứ bệnh, nhưng chủ nhân mát tay mà rất kiên nhẫn nên màu tím hoa sim phơi phới trong hơi mát của bụi mưa long lanh kiều diễm. Lisa không thấy màu tím hoa sim có chi nổi bật đến nỗi phải trầm trồ như tôi đã làm. Thì một loại hoa năm cánh có màu hồng (pink), thế thôi… Lisa cùng tôi đi lên đồi thăm mộ, hoa sim tháng ba rộ nở trong rừng, khí trời tươi mát, an lành cho muôn hoa đua sắc. Lisa bảo, giá có nắng thì rừng hoa chắc là lộng lẫy, trong lúc tôi nghe tê dại cả con tim cũng chỉ vì “màu tím hoa sim” một thời hoang tưởng đang huyền ảo trong mưa… Tôi kể cho Lisa huyền thoại nước da đẹp mịn màng của phụ nữ Huế là nhờ đi trong mưa bụi, mưa bụi là một thứ lotion hiếm có của đất trời xứ Huế, vừa massage bằng những vỗ về êm ái làm cho máu lưu thông vừa đem chất ướt cho da một cách tự nhiên, những khi ấy Lisa nheo mắt nhìn tôi đang soi mặt mình trong gương còn ướt nhòa nước mưa sau buổi đi ngoài trời và bảo: “Kim Lan! Du bist ein Hammer” (nghĩa đen: “Kim Lan, mi là một cái búa”, nghĩa bóng của “Hammer” là gây ấn tượng mạnh mẽ, choáng váng… như sức đập của cái búa!!!), và chúng tôi cười xòa vì huyền thoại cơn mưa. Đến ngày thứ năm trời vẫn nửa nắng nửa mưa, Lisa hết kiên nhẫn, tôi nhìn bạn thương hại, trong sân mưa vẫn bay bay, chẳng có dấu hiệu nắng lên, tôi đành buột miệng nói liều: “mai rồi mưa tạnh trong xuân”, một kiểu hứa vu vơ như “em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé”… cốt để làm dịu nỗi nung nấu của người bạn đáng thương. Và Lisa đưa hai tay lên trời “mày làm thơ đó chắc”. Lisa không biết Huế là… “mai mới chắc” chứ hôm nay thì… không chắc chắn tí nào, không những mưa, nắng… mà cả tình yêu, nỗi nhớ, sắc đẹp tất cả đều bấp bênh… Lisa không biết những ngày trời dịu, mà người Huế cho là “tốt trời” như những hôm ấy là những ngày quí giá đối với Huế “nổ lửa”, Huế nóng chảy mỡ trong mùa hè hay Huế “mưa dầm thúi đất” trong mùa đông. Giá Lisa biết được cơn nắng của xứ Huế thì đã không thèm nắng như mèo thèm mỡ mà đem lòng thương mưa bụi đang bay ngoài trời. Những người Huế như tôi gọi những ngày như thế là “trời thương” và đâm ra “thương trời thương Phật”, những ngày mưa hiền như Bụt, không làm đau, những ngày trời đất, cỏ cây con người giao hòa trong một thứ cung tơ nhẹ nhàng, ướt mướt, như kén nhả tơ, như bướm hóa thân… gây bao rung cảm hồi sinh cho mọi loài… Ngày đầu tôi nói chi Lisa đều tin. Tôi nói, mưa bụi khô, không ướt áo đâu, - ai nói “mưa bấc” cũng đúng, mưa nhẹ như bấc! mình đi chơi ngoài trời suốt ngày cũng chả sao. Chúng tôi háo hức đi lang thang thăm chùa, thăm lăng tẩm, thăm đồng quê, mải mê đi không biết mệt vì trời mát dịu như thế… đắm chìm trong khung cảnh tĩnh lặng của Huế. Buổi trưa ngồi ở quán bên đường, bỗng thấy tóc tai ướt nhèm. Lisa đưa khăn cho tôi lau tóc, lau mặt. Lisa cười khi nghe tôi buổi tối húng hắng ho. Tôi bảo chỉ cần uống nước chè xanh nóng đập gừng tươi bỏ vào là hết ngay, một tí cảm trời cảm đất cũng không can chi. Vậy mà ho hen đã theo tôi đến ngày xa Huế, quả thật cái “búa“ nay cũng đã mòn mà Lisa không biết!!! Tôi kể cho Lisa ngày xưa, mưa bụi làm hồng đôi má bồ quân của chị tôi vào tuổi 17 bẻ gãy được sừng trâu, mặt chị đẹp nhất khi lấm tấm nước mưa. Lisa không hiểu được “bẻ gãy sừng trâu” là chi, tôi giải thích: thì cũng giống cái “Hammer” của Lisa ấy… Những ngày cuối cùng ở Huế, mặt Lisa dài ngoẳng ra vì trông đợi nắng, thấy thương… mãi khi trở lại Sài Gòn mới thấy nụ cười Lisa tươi trở lại. Trông Lisa vội vàng chạy ra ngoài nắng hớn hở như đứa trẻ được quà, bà con Sài Gòn đều lấy làm lạ. Hôm nay viết chưa xong những dòng về mưa bụi, cảm giác như mình đang mộng du, chân không chấm đất, người như say phiêu phiêu, cả một thứ ngôn ngữ ảo cho Huế của tôi… bỗng nhớ Lisa, tôi gọi Lisa và bảo tôi đang viết vi vu về mưa Huế đây nì. Tiếng Lisa thảng thốt bên kia: Ối trời ơi, Huế cái chi cũng lạ cũng đẹp, chỉ trừ có mưa! Muenchen, nhị độ xuân, tháng tư 2005 T.K.L (254/04-10) --------------- (1) Trong vườn của nhà thơ kiêm họa sĩ TVM, tác giả được dịp ngắm dưới mưa các loài hoa trong vườn, trong đó có bụi hoa sim (thường mọc dại trên rừng) đang nở rộ vào tháng ba. |
NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.
BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.
PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.
XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.
NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.
TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.
NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!
Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.
NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com
VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.
TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.
TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.
TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…
MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.
NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.
HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.
NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.
LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...