Lý thuyết tiếp nhận và phê bình văn học

09:11 04/12/2009
TRẦN ĐÌNH SỬVăn học sáng tác là nhằm để cho người đọc tiếp nhận. Nhưng thực tế là người đọc tiếp nhận rất khác nhau. Lý luận tiếp nhận truyền thống giải thích là do người đọc không sành.

GS Trần Đình Sử

Gần 1500 năm trước Lưu Hiệp trong thiên "Tri âm" của Văn tâm điêu long nói: "con lân, con phượng, con hoẵng, con gà rừng khác hẳn nhau, châu ngọc và đá sỏi hoàn toàn khác nhau, dưới thanh thiên bạch nhật có đôi mắt sáng mà quan sát thì phải nói là khó bề nhầm lẫn; thế nhưng người nước Lỗ nhìn lân ra hoẵng, người nước Sở lại xem gà rừng là phượng hoàng, người nước Ngụy lại coi ngọc dạ quang là hòn đá kì lạ, còn người nước Tống lại xem hòn đá núi Yến là châu báu! Những vật có hình dáng cụ thể dễ nhận đến thế mà còn nhầm lẫn lung tung thì văn chương vốn khó thẩm định rõ ràng, ai dám bảo là dễ phân biệt? "Từ đó ông đề ra cách thức để đánh giá đúng tác phẩm gồm sáu điều: xem sắp xếp thể loại, xem bố trí ngôn từ, xem kế thừa và cách tân, xem phong cách, xem điển cố, xem thanh luật. Theo ông cứ sáu điểm ấy mà xem thì phân biệt được văn hay dở. Quan điểm ấy dựa trên một tiền đề là xem văn bản ổn định, bất biến, chỉ cần "hư tâm",để lòng cho sạch, có phương pháp đúng thì rồi sẽ hiểu đúng tác phẩm.

Lí luận tiếp nhận hiện đại không giản đơn qui "lỗi" cho người đọc, mà có nhận thức mới đối với văn bản tác phẩm. Văn bản không phải là một sản phẩm bất biến và đơn nghĩa, mà là có nội dung vô tận, đã nghĩa. Từ đầu thế kỉ nhà nghiên cứu Nga A.Gornơphen đã nói: "Mọi tác phẩm nghệ thuật đều là tượng trưng và việc sử dụng nó thì vô cùng tận, các khái quát nghệ thuật mang tính bóng gió cho nên ý nghĩa cũng vô cùng tận". Nhà nghiên cứu L.Vưgôcxki cũng nói: "Tác phẩm nghệ thuật... cho phép có nhiều vô tận các cách cắt nghĩa... và đó là điều đảm bảo cho ý nghĩa không tàn phai của nó". Tác giả M.Epstein trong Giản yếu bách khoa văn học (1978) viết: "Sự cắt nghĩa dựa trên tính "mở", tính nhiều nghĩa của hình tượng nghệ thuật, là cái đòi hỏi phải có nhiều vô hạn cách cắt nghĩa để bộc lộ bản chất của nó và đảm bảo khả năng về một đời sống lịch sử lâu dài, được phát triển thêm các ý nghĩa mới". Tính chất này đã được hoàn toàn chứng thực, chẳng hạn qua ví dụ về bài thơ Thề non nước của Tản Đà, Truyện Kiều của Nguyễn Du và vô vàn tác phẩm khác. Tính khái quát tượng trưng cho phép có thể liên hệ với nhiều tình huống khác nhau của đời sống, và do đó mà có các ý nghĩa khác nhau. Sự cảm thụ khác nhau do kinh nghiệm, hứng thú, lập trường, quan điểm của người đọc, khiến cho sự chú ý, rung cảm của người đọc liên hệ với các thuộc tính, chi tiết, bình diện khác nhau của tác phẩm: đạo đức, triết lí, thẩm mĩ, chính trị, nhạc điệu v.v... Các thời kì lịch sử và môi trường xã hội cũng có cách hiểu chung của chúng, khiến cho cách hiểu của các cá nhân bị phụ thuộc vào. Ví như cách hiểu về "thơ mới" qua các thời kì, các môi trường xã hội.

Vậy liệu có thể nói tới cách hiểu đúng và sai đối với tác phẩm hay không?Việc khen chê có còn có tính khách quan khoa học không? Đối với vấn đề này một số nhà lí luận phương Tây hoàn toàn phủ nhận ý nội dung khách quan. Các nhà lí luận Cộng hòa liên bang Đức như Xaoxơ, Yderơ thì không xem văn bản là trung tâm của nghiên cứu văn học, còn nhà lí luận Mĩ S.Feisơ thì coi như văn bản đã biến mất, tác phẩm do người đọc cấu tạo ra. Đó là những quan điểm cực đoan, bởi vì không thể xem văn bản là con số không được. Mọi sự cắt nghĩa đều bị cái được cắt nghĩa qui định: ngôn từ, thể loại, cấu trúc, bộ phận và chỉnh thể... Không thể cảm thụ một bài thơ thành tiểu thuyết, văn xuôi thành văn vần. Rõ ràng văn bản có những ranh giới không cho phép sự cắt nghĩa sáng tạo tùy tiện vượt qua. Một sự cắt nghĩa có cơ sở trong các dữ kiện của tác phẩm, phù hợp với cấu trúc biểu hiện của tác phẩm là cách cắt nghĩa có sức thuyết phục. Nhà lí luận văn học Nga M. Khơrápchencô ví tác phẩm như máy thu thanh có nhiều dải tần, người đọc có thể điều chỉnh để tìm tiếng nói, chương trình thích hợp, và chỉ khi điều chỉnh đúng thì mới nghe được, nếu không chỉ có tạp âm. Như vậy là có nhiều cánh đọc và sẽ không có một người đọc duy nhất đúng. Những cánh đọc tác phẩm bằng cách trích dẫn ý kiến thưởng thức của các tác giả có uy tín đi trước rồi xem là duy nhất đúng chẳng có gì hơn là một sự lặp lại đơn thuần. Người đọc văn học được xem là kẻ đồng sáng tạo ra tác phẩm không phải chỉ với tư cách làm sống dậy tác phẩm trong cảm thụ (như bù đắp, chắp nối, liên tưởng, cụ thể hóa...) mà còn phát hiện ý nghĩa mới và mối liên hệ chỉnh thể tương ứng với nó. Như vậy, chỉ cần có căn cứ đầy đủ thì mọi cách đọc đều là những cách mở ra các cánh cửa chìm của tác phẩm.

Nói về việc tìm ra ý nghĩa tác phẩm, nhiều nhà lý luận tiếp nhận hiện đại cho rằng ý nghĩa không nằm trong văn bản tác phẩm, mà nằm trong tầm đón nhận của người đọc, trong cái khung ý nghĩa mà người đọc đem lồng vào tác phẩm. Đây là điều có một phần sự thực, là điều mà lí luận văn học Trung Quốc xưa nói là kẻ trí giả đọc thì thấy trí, kẻ có lòng nhân đọc thì thấy điều nhân. Thánh Thán nói kẻ biết văn đọc Tây sương thì thấy văn hay, kẻ hiếu dâm đọc nó lại thấy là dâm thư! Nhưng lõi cốt vấn đề là sự gặp gỡ của người đọc và tác phẩm. Nếu tác phẩm không có trí và nhân thì còn nói gặp gỡ thế nào được! Do đó không thể phủ nhận tính khách quan của văn bản.Mặt khác, một khi đã hiểu tác phẩm theo cách này thì không dễ gì hiểu được cách hiểu của người khác. Bởi vì nhiều người đã cho thấy: Cũng giống như trong học tập, cái trở ngại cho sự tiến bộ không phải là điều chưa biết, mà là điều đã biết, "Bình luận một tác phẩm có nghĩa là giăng một lớp màng ngăn cách lên tác phẩm, ngăn trở việc thâm nhập hoặc tiếp cận tác phẩm như nó vốn có hoặc theo cách khác". Do đó người đọc thiếu bản lĩnh thường không đủ sức vượt qua những màng ngăn của người đi trước để thâm nhập tác phẩm một cách độc lập. Và nhiều nhà bình luận cũng tự xây kén kín mít xung quanh mình đến nỗi mất hẳn năng lực hiểu người khác, và rồi họ cứ dẫm chân tại chỗ!

Do tình trạng như thế mà nhà phê bình Mĩ Harônđơ Blum quả quyết rằng mọi sự đọc đều là xuyên tạc. Cũng giống như người ta thường nói "dịch là phản", "dịch là diệt", giải thích tác phẩm là dịch ngôn ngữ nghệ thuật ra ngôn ngữ thông thường, cho nên nó cũng là "phản". Harônđơ Blum hứng thú với việc xem xét các nhà thơ đã đọc tác phẩm của các tiền bối của họ ra sao. Luận đề của Blum là: mỗi nhà thơ có năng lực đều xuyên tạc các ông thầy (hoặc bà thầy) vĩ đại của họ, và xem đó là lý luận phổ biến về thơ ca. Nhưng luận đề này cũng bao hàm cả mọi nhà phê bình. Theo Blum thì "hiểu lầm" là yếu tố tất yếu nằm trong phê bình và nghiên cứu văn học sử, và "việc các nhà thơ hiểu thơ một cách xuyên tạc thường gặp hơn và cực đoan hơn so với cách hiểu lầm của nhà phê bình" (Lý luận thơ ca: niềm lo lắng của ảnh hưởng, Đại học Oxford, 1973 trích theo bản dịch Trung văn). Bởi vì nhà thơ giàu tưởng tượng dễ dàng biến bài thơ của tiền bối thành một bài văn xuôi giàu ma lực, còn mức độ xuyên tạc thì phụ thuộc vào cá tính của nhà thơ. Lí thuyết của Blum xem ra rất cực đoan, nhưng không phải là không có phân lượng chân lí.

Lý luận tiếp nhận ngày nay chưa thể nói là đã giải quyết ổn thỏa mọi khúc mắc, nhưng rõ ràng đã mở ra một bức tranh phức tạp khiến chúng ta phải suy nghĩ. Phê bình nhầm là chuyện thường, nhưng nhiều khi phê bình lầm mà phương hại một đời văn, đời thơ thì chẳng còn là chuyện thường được nữa. Thói thường nhà phê bình tự tin cứ phăm phăm xông lên phía trước, mối ngôn từ dào dạt tuôn ra, hoặc bắn ra như súng máy cực nhanh, mấy ai bình tâm nghĩ lại xem cách bắn của mình và liệu có bắn oan không?

Lý luận tiếp nhận ngày nay giải phóng cho sức sáng tạo của người đọc, mở cửa cho sự phê bình nhiều phía nhiều chiều, nhưng cũng đòi hỏi hơn bao giờ hết sự cẩn trọng. Nó dập tắt cái tư tưởng chỉ sùng bái một vài cây bút được gọi là quyền uy, mặc dù tài năng không phải là thứ được chia đều cho mọi người.

10-1998
T.Đ.S
(124/06-99)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Thế giới đang xuất hiện trào lưu phục hưng minh triết sau một thời gian dài chối bỏ. Ở Việt cũng đã hình thành Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh Triết thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt . Tiếp theo cuộc Hội thảo lần thứ I tại Hà Nội “Minh triết - giá trị nhân loại đang phục hưng”, cuối tháng 11.2009 tại Huế, Trung tâm đã tổ chức Hội thảo với chủ đề “Minh triết Việt trong tiến trình lịch sử văn hóa Việt”.

  • Giấy dó là sản phẩm thủ công của cha ông ta để lại. Xưa kia làng Bưởi có nghề làm giấy dó nổi tiếng. Giấy dó được dùng vào việc ghi chép văn bản chữ Hán nôm, viết bút lông mực tàu...

  • Sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật- dù ở đâu, thời kỳ lịch sử nào cũng vậy- thường phụ thuộc vào 3 nhân tố quan trọng và phổ quát nhất: Sự phát triển của khoa học và công nghệ; Những chính sách chính trị (trong đó bao gồm cả những chính sách về văn hóa và nghệ thuật); Những nhà tư tưởng và nghệ sỹ lớn.  

  • TRẦN HUYỀN SÂMClaude Lévi-Strauss là một trường hợp hiếm thấy và khó lặp lại trong lịch sử nhân loại. Lévi chính là một cú sốc đối với nền văn minh phương Tây. Lý thuyết của nhà cấu trúc học vĩ đại này là sự hạ bệ hùng hồn nhất đối với tư tưởng thống ngự và độc tôn của xã hội toàn trị châu Âu; và là sự biện minh sâu sắc cho một mô thức đa văn hóa của nhân loại.

  • LÊ THÀNH LÂNTrong 4 năm liền, Tào Mạt lần lượt cho ra đời ba vở chèo tạo nên một bộ ba chèo lịch sử với tiêu đề chung là Bài ca giữ nước, đều do Đoàn Nghệ thuật Tổng cục Hậu cần dàn dựng và đều được nhận những giải thưởng cao.

  • PHONG LÊĐó là: 1. Từ sự phân cách, chia đôi của hai thế giới - địch và ta, chuyển sang hội nhập, cộng sinh, có nghĩa là nhân rộng hơn các tiềm năng, cũng đồng thời phải biết cách ngăn ngừa, hoặc chung sống với các hiểm họa. 2. Từ cộng đồng chuyển sang cá nhân, cá nhân trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển, nhưng cá nhân cũng sẵn sàng nổi loạn cho các ước vọng thoát ra khỏi các chuẩn mực của cộng đồng. Và 3. Từ phong bế (ở các cấp độ khác nhau) đến sự mở rộng giao lưu, hội nhập với khu vực và quốc tế, với sự lưu tâm hoặc cảnh báo: trong đi tắt, đón đầu mà không được đứt gẫy với lịch sử.

  • ĐỖ HẢI NINH(Nhân đọc tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng. Nxb Phụ Nữ, H, 2009; tác phẩm nhận giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2009)

  • PHẠM QUANG TRUNGHiện nay, vấn đề đổi mới thi pháp đang được nhiều người cầm bút quan tâm. Xin ghi lại cuộc trao đổi mới đây giữa tôi (PQT) với một nhà văn (NV) về vấn đề bức thiết này.

  • (Theo bách khoa thần học New Catholie)THẨM GIÁ PHÊ BÌNH Việc thiết định giá trị phán đoán trong phê bình đã được kiểm thảo một cách nghiêm khắc trong thế kỷ XX. Chẳng hạn, người ta cho rằng phê bình đã vượt lên cả tầm vóc “viên đá thử vàng” trong việc thẩm giá hội họa để dẫn dắt thị hiếu thưởng thức hội họa của công chúng.

  • NGUYỄN ĐĂNG MẠNH(Kỷ niệm 70 năm ngày mất nhà văn Vũ Trọng Phụng 1939 - 2009)Trong lĩnh vực văn chương, tác phẩm không hay, không có giá trị nghệ thuật thì chỉ là con số không, chẳng có gì để nói, để bàn. Người viết ra nó, dù cuộc đời có ly kỳ thế nào, người ta cũng chẳng quan tâm.

  • ĐỖ LAI THÚYHòn đất cũng biết nói năng(Nhại ca dao)

  • HOÀNG CẦMĐang những ngày hè oi ả, mệt lử người thì anh ấy mời tôi viết Bạt cho tập thơ sắp muốn in ra. Ai đời viết bạt cho tác phẩm người khác lại phải dành trang giấy đầu tiên để viết về mình? Người ta sẽ bảo ông này kiêu kỳ hay hợm hĩnh chăng? Nhưng cái anh thi sỹ tác giả tập thơ thì lại bảo: Xin ông cứ viết cho, dẫu là bạt tử, bạt mạng, thậm chí có làm bạt vía ai cũng được - Chết, chết! Tôi có thể viết bạt mạng chứ sức mấy mà làm bạt vía ai được.

  • ĐẶNG ANH ĐÀOTrong tác phẩm nghệ thuật, phân biệt thật rạch ròi cái gì là ý thức, sáng suốt, tự giác với cái gì vô ý thức, tự phát, cảm tính không phải là điều đơn giản. Ngay cả những nhà văn lãng mạn như Huygô, nhiều lúc sử dụng nhân vật chính diện như những cái loa phát biểu lý tưởng của mình, thế mà đã có lúc Kessler bịt miệng lại không cho tán tụng nhân vật Côdet và mắng rằng: Huygô anh chả hiểu gì về tác phẩm ấy hết", đồng thời tuyên bố rằng ông còn thích Epônin gấp bội lần "Côdet, cô nàng điệu đàng đã tư sản hóa ấy".

  • ĐỖ ĐỨC HIỂU…Với tôi, Balzac là Tiểu thuyết, và Tiểu thuyết là Balzac, - tiểu thuyết Balzac là "tiểu thuyết tuyệt đối", tức là nó biểu hiện tất cả sức mạnh sáng tạo của ông, tất cả cái "lực" của ý thức và tâm linh, của khoa học và tôn giáo, từ cấu trúc truyện và thời - không gian (chronotope), đến cấu trúc nhân vật, tất cả phối âm, tương ứng với nhau thành một dàn nhạc hoàn chỉnh…

  • HỮU ĐẠTKhông phải ngẫu nhiên, Trần Đăng Khoa lại kết thúc bài viết về Phù Thăng một câu văn rất là trăn trở: "Bất giác... Tôi nắm chặt bàn tay gầy guộc của Phù Thăng, lòng mơ hồ rờn rợn. Chỉ sợ ở một xó xỉnh nào đó, sau lùm cây tối sầm kia, lại bất ngờ cất lên một tiếng gà gáy..." Ta thấy, sau cái vẻ tếu táo bên ngoài kia lắng xuống một cái gì. Đó là điểm gợi lên ở suy nghĩ người đọc.

  • HÀ QUANG MINHTôi không muốn chỉ bàn tới cuốn sách của ông Khoa mà thôi. Tôi chỉ coi đó là một cái cớ để bàn luận về nền văn học nước nhà hiện nay. Là một người yêu văn học, nhiều khi tôi muốn quên đi nhưng vô tình vấn đề nẩy sinh TỪ "CHÂN DUNG VÀ ĐỐI THOẠI" đã trở thành giọt nước cuối cùng làm tràn ly và lôi tuột cái nỗi đau mà tôi muốn phớt lờ ấy. Phải, tôi thấy đau lắm chứ. Bởi lẽ ai có ngờ mảnh đất trong sáng mang tên văn học sao giờ đây lại ô nhiễm đến thế.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(góp phần định nghĩa minh triết)         (tiếp Sông Hương số 248)

  • Việc giải quyết thành công mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính hiện đại đã hình thành ra các trường phái âm nhạc như: âm nhạc Nga, Pháp, Mỹ, Trung Hoa . . .

  • Phê bình thi pháp học đã mang đến sức sống mới cho phê bình văn học Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu cho rằng thi pháp học là phương pháp minh chứng cho thành quả thay đổi hệ hình nghiên cứu trong phê bình văn học.

  • Hiện nay trên thế giới, quan niệm về Nghệ thuật tạo hình, Nghệ thuật thị giác và Mỹ thuật mang ý nghĩa gần giống nhau. Nó bao gồm: hội họa, đồ họa, kiến trúc, điêu khắc, trang trí ứng dụng, video clip, sắp đặt v.v..Loại hình nghệ thuật này luôn xuất hiện bằng những hình ảnh (image) thu hút mắt nhìn và ngày càng mở rộng quan niệm, phương thức biểu hiện cũng như khai thác chất liệu. Tuy nhiên, để hiểu thế nào là nghệ thuật trong tranh, hoặc vẻ đẹp của một công trình nghệ thuật còn là câu hỏi đặt ra với nhiều người.