Lược sử nhạc cổ điển: Thời kỳ Lãng mạn

16:09 11/10/2016

Nếu như trào lưu Khai sáng thế kỉ 18 khởi nguồn từ một thiểu số tinh hoa rồi chầm chậm lan truyền ảnh hưởng ra khắp xã hội thì trào lưu Lãng mạn phổ biến hơn nhiều từ cội nguồn đến ảnh hưởng.

Frédéric Chopin biểu diễn tại nhà riêng ở Radzwill năm 1829 – Tranh: Henryk Siemiradzki, 1887

Không có trào lưu tri thức/nghệ thuật nào sánh bằng trào lưu lãng mạn về độ đa dạng, bền bỉ và vươn xa kể từ cuối thời kỳ Trung cổ. Từ sau Cách mạng Pháp 1789, trào lưu Lãng mạn bắt đầu lan tỏa khắp châu Âu, làm biến đổi nghệ thuật thi ca, tiểu thuyết, kịch nghệ, hội họa, điêu khắc... và âm nhạc. Trào lưu Lãng mạn được kết nối chặt chẽ với đời sống chính trị của thời đại, phản ảnh nỗi sợ hãi cũng như niềm khát vọng của con người. Đầu thế kỉ 19, nó là tiếng nói của cách mạng và đến cuối thế kỉ, nó là tiếng nói của quyền uy như là kết quả thắng lợi của giai cấp đã sinh thành, cổ vũ và tiếp nhận nó: giai cấp tư sản.

Vào đầu thế kỷ 19, phong cách Cổ điển Vienna như được minh họa trong tác phẩm của Haydn, Mozart và Beethoven đã thịnh hành khắp châu Âu. Phong cách này cung cấp một phương tiện rất thỏa đáng để đạt được các mục tiêu âm nhạc của thời đại mà hầu hết mọi nhà soạn nhạc đều viết theo một vài biến thể của nó. Song phong cách cũng có xu hướng trở thành một công thức đơn thuần trong tay các nhà soạn nhạc kém tài khéo hơn. Một phần vì lý do đó mà từ năm 1810 đến năm 1820, các nhạc sĩ thử nghiệm đã dần bắt đầu vươn tới các hướng đi mới.

Những biểu lộ ban đầu

Các nhạc sĩ không còn cảm thấy cần phải phối hợp mọi yếu tố trong âm nhạc của mình để duy trì các đề cương hình thức rõ ràng. Họ bắt đầu coi trọng các mục tiêu âm nhạc khác hơn là mục tiêu rõ ràng về hình thức. Thay vì tính điều độ, họ bắt đầu coi trọng những phẩm chất như tính bốc đồng và mới lạ. Chẳng hạn như họ có thể viết một chuỗi hợp âm bất thường cho dù chuỗi đó không góp phần vào xu hướng hòa âm tổng thể của tác phẩm.

Tương tự như vậy, nếu âm thanh của một nhạc cụ đặc thù có vẻ đặc biệt hấp dẫn trong suốt tiến trình một bản giao hưởng, họ có thể viết một đoạn độc tấu dài dành cho nhạc cụ này dù đoạn độc tấu đó làm bành trướng hình dạng bản giao hưởng.

Theo cách này hay cách khác, các nhà soạn nhạc thế kỉ 19 bắt đầu biểu lộ một nhãn quan Lãng mạn đối lập với nhãn quan Cổ điển về nghệ thuật. Các mục tiêu thẩm mỹ của chủ nghĩa Lãng mạn được coi trọng một cách đặc biệt ở Đức và Trung Âu. Các tác phẩm khí nhạc của Franz Schubert người Áo cũng như âm nhạc viết cho piano và opera của Carl Maria von Weber người Đức là những biểu lộ ban đầu của sự phát triển này trong âm nhạc.

Âm nhạc chương trình

Các nhà soạn nhạc lãng mạn thường lấy cảm hứng từ văn học, hội họa và các nguồn phi âm nhạc khác. Kết quả là âm nhạc chương trình, hay âm nhạc theo một dàn ý phi âm nhạc, được sáng tác một cách rộng rãi dẫn tới sự phát triển của thể loại thơ giao hưởng. Một bản thơ giao hưởng hay một thi phẩm bằng âm thanh từ nhạc cụ (tone poem) là một tác phẩm viết cho dàn nhạc, có một chương nhạc, trong đó một chương trình (programme) nào đó ngoài âm nhạc như thơ, hoạ mang lại cho tác phẩm yếu tố kể chuyện hoặc minh họa. Nhà soạn nhạc Pháp Hector Berlioz, nhà soạn nhạc Hungary Franz Liszt và nhà soạn nhạc Đức Richard Strauss là ba trong số những người đặc biệt nổi bật ở thể loại âm nhạc chương trình.

Biên chế dàn nhạc được hoàn thiện trong thời kỳ Lãng mạn và vẫn còn được áp dụng đến ngày nay. Các loại kèn đồng được bổ sung van điều chỉnh cao độ, các loại kèn gỗ được bổ sung các khóa nhạc tạo thuận lợi cho việc ký âm. Điều đó đã khuyến khích các nhà soạn nhạc thời kỳ Lãng mạn viết nhiều tác phẩm đề cao bộ đồng và bộ gỗ.

Ca khúc nghệ thuật

Thi ca các thế kỉ 18 và 19 đã tạo nền tảng cho các ca khúc nghệ thuật, trong đó nhà soạn nhạc dùng âm nhạc khắc họa hình ảnh và tâm trạng của lời thơ. Thể loại ca khúc nghệ thuật Đức được gọi là lied (số nhiều: lieder), một từ tiếng Đức có nghĩa đen là “bài ca”. Nhiều tác phẩm được sáng tác trong truyền thống lied, giống như truyền thống của khúc madrigal Ý ba thế kỉ trước, miêu tả một trong những thành quả phong phú nhất của cảm giác con người. Thành công nhất trong thể loại lied thế kỉ 19 là các nhà soạn nhạc Franz Schubert, Robert Schumann, Johannes Brahms, Hugo Wolf và Richard Strauss vào cuối thế kỉ.

Các phong cách opera

Trong thế kỷ 19, opera là một thể loại lý tưởng. Tại đây, tất cả các môn nghệ thuật được kết hợp với nhau để tạo ra các cảnh diễn lớn, các tình huống cảm xúc nhiều sức nặng và các cơ hội phô diễn giọng hát. Tại Pháp, Gasparo Spontini và Giacomo Meyerbeer hình thành phong cách gọi là grand opera. Một nhạc sĩ Pháp khác là Jacques Offenbach đã phát triển một phong cách opera hài hước gọi là opéra bouffe. Các nhà soạn nhạc opera Pháp quan trọng khác là Charles Gounod và Georges Bizet. Ở Ý, Gioacchino Rossini, Gaetano Donizetti và Vincenzo Bellini đã tiếp tục truyền thống bel canto (hát đẹp) Ý thế kỷ 18. Tại Ý vào nửa sau thế kỷ, Giuseppe Verdi đã bớt tập trung vào bel canto mà nhấn mạnh các giá trị kịch tính vốn có trong các mối quan hệ giữa con người. Còn Giacomo Puccini thì tập trung vào tình yêu ủy mị và các cảm xúc mãnh liệt. Tại Đức, Richard Wagner tạo ra một phong cách opera mà ông tự gọi là nhạc kịch (drama music), trong đó mọi khía cạnh của tác phẩm đều góp phần vào kịch tính trung tâm hay mục tiêu triết lý. Không giống như Verdi, người nhấn mạnh giá trị nhân văn, Wagner thường quan tâm nhiều hơn đến truyền thuyết, huyền thoại và các khái niệm như sự cứu chuộc. Wagner phát triển việc sử dụng các mẩu giai điệu và hòa âm ngắn được gọi là leitmotif (tiếng Đức: mô típ chủ đạo) để đại diện cho các nhân vật, các đối tượng, các khái niệm... Các mẩu nhạc này được lặp đi lặp lại trong các bè thanh nhạc hoặc dàn nhạc mỗi khi những thứ mà chúng đại diện tái xuất hiện trong hành động và suy nghĩ của nhân vật.

Tiếp tục truyền thống âm nhạc tuyệt đối

Trong suốt thế kỉ 19, truyền thống âm nhạc trừu tượng hay tuyệt đối vẫn được duy trì trong các bản giao hưởng và nhạc thính phòng. Schubert, Schumann, Brahms, Mendelssohn và Bruckner đã để lại những dấu ấn đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực này. Nhà soạn nhạc Nga Peter Ilyich Tchaikovsky đã viết các tác phẩm giao hưởng và thính phòng cũng như các vở opera và âm nhạc chương trình. Còn nhà soạn nhạc người Ba Lan Frédéric Chopin thì viết cho đàn piano các tác phẩm phi chương trình nhưng có hình thức kế thừa một cách tự do và phóng khoáng.

Trường phái dân tộc và các phong cách khác

Đến cuối thế kỷ, phong cách Lãng mạn đã thay đổi ngôn ngữ âm nhạc theo một số cách. Thị hiếu đối với các chuỗi hợp âm bất thường đã gây ra sự tan rã điệu thức. Các nhà soạn nhạc, đặc biệt là Wagner, đã tăng cường sử dụng gam bán cung - phong cách hòa âm với một tỉ lệ lớn các quãng nằm ngoài điệu thức phổ biến. Các phong cách âm nhạc dân gian lan truyền rộng rãi, đặc biệt là trong nhóm nhà soạn nhạc đến từ Nga, Czechoslovakia, Na Uy và Tây Ban Nha. Trong số các nhà soạn nhạc này có Mikhail Glinka, Modest Mussorgsky và Nikolay Rimsky-Korsakov người Nga; Antonín Dvořák và Bedřich Smetana người Czech; Edvard Grieg người Na Uy. Các nhà soạn nhạc về sau có sử dụng các yếu tố dân gian gồm Louis Moreau Gottschalk người Mỹ; Carl Nielsen người Đan Mạch; Jean Sibelius người Phần Lan; Manuel de Falla người Tây Ban Nha.

Các phong cách dân gian cùng với các hình thức khác được khám phá ra vào đầu thế kỉ 20 đã đưa trở lại nhiều quan niệm cũ hơn về hòa âm và nhịp điệu. Các nghiên cứu có tính hệ thống về lịch sử âm nhạc đã bắt đầu từ thế kỉ 19 cũng có hiệu quả tương tự. Với sự tan rã của điệu thức, sự gắn kết trong một tác phẩm âm nhạc ngày càng ít phụ thuộc vào trào lưu hòa âm mà phụ thuộc hơn vào sự tăng giảm của cường độ và mật độ âm thanh. Việc sử dụng âm thanh như một yếu tố cấu trúc trong âm nhạc là một đặc trưng của phong cách Pháp cuối thời kỳ Lãng mạn, được gọi là trường phái Ấn tượng mà Claude Debussy và Maurice Ravel đã phát triển. Các nhà soạn nhạc người Pháp khác làm việc theo phong cách châm biếm hơn gồm có Francis Poulenc và Erik Satie.

Thời kỳ Lãng mạn xuyên suốt thế kỉ 19 và kết thúc vào khoảng thời gian nổ ra Thế chiến thứ nhất. Nó là một trong ba thời kỳ thực hành phổ biến trong lịch sử âm nhạc, cùng với Baroque và Cổ điển. “Thực hành phổ biến” là khi nhiều quan niệm cấu thành nên âm nhạc cổ điển phương Tây được định hình, chuẩn mực hóa và hệ thống hóa và nhờ đó mà các nhà soạn nhạc dễ dàng truyền thông với nhau và với thính giả. Điều này sẽ khó khăn hơn rất nhiều trong thế kỉ 20 đầy biến động.

 

Các ngôi sao của thời kỳ Lãng mạn

Trong tất cả các thể loại âm nhạc, sự độc đáo về biểu hiện được đánh giá rất cao. Điều này không chỉ tạo ra các phong cách cá nhân nhiều khác biệt mà còn tạo ra sự sùng bái cá nhân đối với các nghệ sĩ biểu diễn kiệt xuất và nhạc trưởng bậc thầy. Hai trong số những người nổi tiếng nhất là Franz Liszt và Nicolò Paganini. Một tên tuổi khác không thể không nhắc đến là Gustav Mahler, người đã viết các bản giao hưởng liên quan mật thiết đến đời sống cá nhân của mình.

Nguồn: Ngọc Anh - Tia Sáng




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN VIỆT ĐỨC1.Về bản sắc văn hoá dân tộc.Mỗi dân tộc đều có một tiếng nói riêng, một cốt cách riêng được phản ánh thông qua những giá trị tinh thần và vật chất cụ thể, đó là bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc đó.

  • VĨNH PHÚCNghiên cứu, phê bình, giới thiệu Dân ca Nam Bộ trong giai đoạn này chúng tôi chỉ sưu tập được 15 bài, tuyển chọn và sử dụng 9 bài. Hầu như đều nổi trội lên 2 thể loại chủ yếu là Hò và Lý, kể cả những bài viết mang tính tổng quan về vùng dân ca này.

  • MẶC HY                Hồi ký "Lúa vàng! Lúa vàng trên cánh đồng làng, tang tình tang, tang tình tang... Đêm nay, gặt mà lúa về... ta đập mà ta xay, ta giã mà ta giần..."

  • MAI VYSự sáng tạo nghệ thuật của giới nghệ sĩ biểu diễn xuất phát từ cảm xúc trước tác phẩm, trước cuộc sống. Đó là đặc thù trong quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Mối quan hệ đó bao giờ cũng là mối quan hệ có tính chất cảm tính. Người nghệ sĩ chân chính nào cũng có khả năng cảm xúc rất nhạy bén trước đối tượng được thể hiện. Họ có khả năng lồng trí tưởng tượng vào trong quá trình sáng tạo cốt để thâm nhập sâu hơn vào bản chất của các sự vật.

  • NGUYỄN THỤY KHACó thể nói, khi có loài người là có âm nhạc. Thực ra những âm thanh trong thiên nhiên, vũ trụ có trước loài người. Nhưng loài người không chỉ nghe được nó như loài thú chỉ đạt tới cảm xúc, mà còn nhận thức nó, bắt chước nó để tạo ra những âm thanh của mình. Một cành cây hay một khúc xương, người làm ra cây sáo. Sợi dây cung trở thành dây đàn. Một tấm da thú căng ra là thành cái trống.

  • MAI VYÂm nhạc là một bộ môn nghệ thuật có nhiều loại hình phong phú và đa dạng, từ làn điệu dân ca mộc mạc, từ nét nhạc tấu đơn giản của cây đàn nghiệp dư, đến những bản a-ri-a hết sức phức tạp trong ô-pê-ra hay các hình thức âm nhạc giao hưởng khác nhau như liên khúc giao hưởng, Trường ca giao hưởng.

  • NGUYỄN THỤY KHAVới độ dày gần nửa mét, gồm 7 quyển sách chia làm 5 tập (có tập 2 và tập 5 gồm 2 quyển) và bìa sách trình bày đẹp, trang trọng, bộ sách “Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX” là bộ sách âm nhạc đồ sộ và công phu nhất của ngành âm nhạc từ trước đến nay do Viện Âm nhạc Việt chủ biên và ấn hành vừa giới thiệu trước công luận gần đây.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã gần một năm, Anh từ biệt trần gian về cõi vĩnh hằng, tâm tưởng tôi vẫn vấn vương với Anh, vẫn luôn mường tượng thấy Anh với nụ cười tươi tắn, rất hồn nhiên, lại nhiều lúc thấy Anh đang mơ màng chìm trong một thế giới riêng tư xa thẳm nào đó.

  • NHẤT LÂMVâng.Ca khúc thời ấy thật hào hùng, sôi sục và đầy lãng mạn.Đó là đêm trước của tháng Tám năm 1945, những năm tháng của phong trào Việt Minh chuẩn bị cho ngày toàn dân vùng lên đánh đổ mọi thế lực thù địch để giải phóng dân tộc, đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Và cái mốc đó, theo tôi là từ ngày cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn) năm 1941.

  • VIỆT ĐỨCVề với Trường Sơn, về với kỷ niệm của một thời khói lửa đạn bom là tiếng lòng, là tâm nguyện của nhiều hội viên Hội nhạc sỹ Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế kể từ sau ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam 30/4/1975. Và sau gần 30 năm, mùa xuân 2004, tâm nguyện ấy đã trở thành hiện thực khi kỷ niệm của một thời chiến tranh cứ ào ạt ùa về theo bước chân các nhạc sỹ trở lại tuyến biên giới miền Tây A Lưới.

  • PHAN THUẬN THẢOGagaku - Nhã nhạc - là loại hình âm nhạc cung đình của Nhật Bản, đối lập với Zokugaku, tức âm nhạc dân gian. Thuật ngữ Gagaku được tiếp thu từ Trung Hoa cùng với sự tiếp nhận một bộ phận các nhạc khí và bài bản từ hệ thống âm nhạc cung đình phong phú và đặc sắc của đất nước Trung Hoa rộng lớn và giàu truyền thống văn hoá.

  • LÊ PHÙNGThế là không còn phút giây mong ngóng, đợi trông - “Ngày em đến đôi mắt long lanh, thơ ngây mơ màng, ngày em đến đôi má hây hây hương thơm nồng nàn...” Bởi chàng nhạc sĩ lãng tử ấy đã ra đi, về với cõi vĩnh hằng. Còn đâu nữa bóng hình của gã si tình say mê, đợi chờ ngày em đến.

  • Nhà thơ - Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo là một tên tuổi nổi tiếng như một nghệ sĩ đa tài Cầm Kỳ Thi Họa trong làng văn học nghệ thuật Việt . Ông là Ủy viên Hội đồng Thơ Hội Nhà Văn Việt Nam, người sáng lập và phụ trách tờ báo Thơ, nay là tạp chí Thơ; ông cũng là một trong những ngưới sáng lập ra Ngày Thơ VN.

  • DƯƠNG BÍCH HÀĐến hẹn lại lên - Festival Huế 2006 đã cận kề. Năm nay, ngoài các loại hình dân ca, dân nhạc, dân vũ; các lễ hội, kịch, tuồng... đặc sắc của Huế, ban tổ chức (BTC) Festival nhấn mạnh một số trọng tâm như: Giao lưu nhã nhạc Việt Nam - Nhật Bản - Hàn Quốc; không gian văn hoá cồng chiêng (nhân cồng chiêng được công nhận là di sản văn hoá); có dàn giao hưởng dân tộc; chương trình thử nghiệm đưa âm nhạc điện tử, nhạc Jar của Pháp kết hợp với âm nhạc truyền thống Huế, âm nhạc Phật giáo; và chương trình âm sắc Việt...

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGCó ngày bỗng dưng thấy lòng thật quạnh hiu. Một nỗi cô đơn nào đó khôn tả xâm chiếm tâm hồn. Tôi đi hoài, lang thang vô định trên những con đường phố Huế xanh xao ánh đèn vàng, bất chợt lòng vang lên giai điệu quen thuộc một ca khúc nào đó của Trịnh Công Sơn. Tự hát cho riêng lòng mình và thấy nỗi buồn vơi đi, lòng cơ hồ bằng an và niềm vui trở lại.

  • NGUYỄN VIỆT ĐỨCQua tiến trình phát triển của lịch sử âm nhạc thế giới, riêng trong lĩnh vực ca khúc chúng ta đều biết có những ca khúc là của mọi thời đại, có những ca khúc chỉ của một thời, có những ca khúc chỉ của một dòng nhạc phục vụ cho nhu cầu của một lớp công chúng riêng nào đó, có những ca khúc lại phù hợp với khá nhiều lứa tuổi và đông đảo công chúng, có những ca khúc chỉ của một vài ngày, có những ca khúc mãi mãi nằm trên giấy...

  • NGUYỄN THỤY KHAĐọc Dòng nước trong (Ca khúc Bích Anh), Nxb Đà Nẵng, 2006

  • HOÀNG DIỆP LẠCCó sự gắn kết nào đó gần như là định mệnh giữa hai con người Trịnh Công Sơn và Nguyễn Xuân Hoàng. Sơn và Hoàng có cùng quê quán ở huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Và cả hai đã sinh ra ở miền cao nguyên, nơi bụi đỏ và sương mù hoà trộn, tạo thành những hạt huyết dụ trôi chảy theo các mạch máu trong thân thể của những con người xứ bụi mịt mùng.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Kỷ niệm 6 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 1/4/2001 - 1/4/2007)Với dòng - sông - Trịnh, đi về biển rộng là một cuộc hành trình trở về với nguồn cội. Dòng sông tìm về biển cả để thấy được sự mệnh mông, hùng vĩ và tuôn trào của biển cả. Tuy nhiên đấy cũng là sự bắt nguồn cho những vết xước trầm tích trong lòng người ở lại - như cọng rễ hoang nay mới đủ sức đâm lên một mầm nhói!

  • NGUYỄN THỤY KHAVào khoảng năm 1962 ở miền Bắc, bỗng rộ lên một bài tình ca ngắn mang tên “Giã từ”. Bài hát được truyền miệng rộng rãi và nếu có ai đó ký âm thành văn bản thì đều ghi là bài hát Liên Xô (CCCP).