Lòng tin và sự nghi ngờ

15:31 16/04/2008
1. Cuốn sách về nhà tình báo nổi tiếng - anh hùng Phạm Xuân Ẩn (PXÂ) của giáo sư sử học người Mỹ Larry Berman, khi được xuất bản bằng tiếng Việt có thêm phụ đề “Cuộc đời hai mặt không thể tin được của Phạm Xuân Ẩn”.

Đây cũng là ý nghĩ của một số nhân vật mà tác giả cuốn sách đã gặp gỡ phỏng vấn. Thực ra, cách nói này không phải là sự nghi ngờ mà để nhấn mạnh tính chất khác thường của PXÂ. Cũng vì một số nếp nghĩ cứng nhắc và máy móc khi sự phân chia “địch - ta” ôm trùm, che lấp hết mọi khía cạnh tinh vi, phong phú và phức tạp của CON NGƯỜI. Bên “ta” thì “không thể tin” một điệp viên cộng sản - “nhà tình báo vĩ đại nhất trong lịch sử đất nước tôi” (Lời của ông Mai Chí Thọ, trang 143) người đã có những chiến công đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước lại không e ngại ca ngợi nhân dân Mỹ, nền giáo dục Mỹ và như nhà báo Jolynne D'Ornano đã viết cho PXÂ: “…Ông có hai lòng trung thành - một đối với đất nước của ông, và một đối với tình yêu nước Mỹ và những người Mỹ mà ông đã kết bạn…” Bên “địch” thì “không thể tin” một điệp viên cộng sản lại có thể sống chân thật như thế, nhân hậu như thế (thậm chí, vào phút chót cuộc tháo chạy 30/4/1975, chính ông đã ra tay cứu giúp, chỉ đường cho bác sĩ Trần Kim Tuyến - nhân vật chống cộng sản rất quyết liệt, tay chân thân tín của Ngô Đình Diệm - di tản) và ông cũng được chính nhiều người Mỹ yêu mến và tin cậy!
Riêng tôi, sau khi đọc cuốn sách, tôi tin “hai mặt” của cuộc đời PXÂ đều chân thật và đều đáng kính trọng. Đã đành, nếu chỉ nhìn theo góc độ “con người - chính trị” thì “địch - ta” phải rạch ròi, nhưng nhà văn thì có lẽ phải miêu tả con người (dù là “bên địch” hay “bên ta”) một cách toàn diện, khi đó mới tạo nên được nhân vật sinh động.  Đã qua cái thời ấu trĩ mà Việt Phương đã viết trong tập thơ “Cửa đã mở” vừa xuất bản: “
Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ.” Chúng ta cũng chưa ai quên một người lính Mỹ đã từng gìn giữ “Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm” suốt mấy chục năm như một báu vật. Và hôm nay, cuốn sách viết về người anh hùng PXÂ gợi cho người cầm bút - và không chỉ với người cầm bút - những suy nghĩ bổ ích…
2. Chiến công của người anh hùng - tình báo PXÂ đã có nhiều sách báo nói đến. Những gì gọi là kinh nghiệm hay “bài học” của anh để lại có lẽ cũng khó có ai và khó có điều kiện để áp dụng vì kẻ địch hiện nay (nếu có) đã khác xa ngày trước. Tuy vậy, có một phẩm chất của PXÂ rất đáng để mọi người noi theo: đó là sự trung thực. Có lẽ không ít người nghĩ rằng đã làm tình báo hoạt động trong lòng địch thì phải lắm mưu mẹo, phải biết lừa dối đối phương mới che giấu được vai trò thật của mình. Nhưng với PXÂ, chính là phẩm chất trung thực, tính chân thật đã giúp anh lập nên chiến công hiển hách. (Như tôi hiểu, chỉ có hai điều ông không nói thật với đối phương: đó là vai trò điệp viên của mình và những lần ông đi gặp đồng đội nhận chỉ thị hay truyền tin về cho cách mạng). Còn nữa, ông luôn là người trung thực trong cả hai vai trò. Với tư cách là phóng viên của Tạp chí
Time (Mỹ), nhờ không tránh né sự thật, nói rõ sự thật, ông sống thật như một phóng viên Mỹ nên mới được đồng nghiệp tin cậy. Chính nhờ thế mà ông không bị lộ, mới có điều kiện tiếp cận những tin tức quan trọng đối với cách mạng. Với bộ chỉ huy của mình, ông cũng trung thực nói tất cả những gì ông hiểu biết về đối phương, kể cả khi ý kiến đó trái với nhận định của cấp này cấp khác. Đã có chiến thắng quan trọng nhờ nhận định trung thực như thế của ông.
Chợt nghĩ: nếu như trong cuộc chiến chống tham nhũng hôm nay, chúng ta có những “tình báo” tài giỏi và trung thực như PXÂ thâm nhập vào các dự án lớn thì khó gì việc lôi ra trước công lý những “con chuột” đang đóng đủ vai vế ngày đêm đục khoét tài sản của nhân dân.

3. Một anh bạn, ngay sau khi đọc xong cuốn sách gọi điện cho tôi với giọng điệu bức xúc và xót xa: “Ghê quá! Một người như PXÂ mà vẫn bị nghi ngờ, theo dõi, cấm đi ra nước ngoài suốt gần chục năm! Muốn gặp một nhà báo nước ngoài cũng phải xin phép!...”.
Vâng! Quả thật là xót xa! Đó cũng là sự hy sinh lớn lao mà có lẽ những người hoạt động lâu năm trong lòng địch - dù lập được chiến công to lớn đến mấy - đều phải gánh chịu khi trở về đội ngũ của mình, một sự hy sinh còn ít được nói đến. Hẳn là vì an ninh của quốc gia và để bảo đảm an toàn cho chính người trong cuộc (và có lẽ đã từng có điệp viên bị kẻ địch mua chuộc) nên các cơ quan “chức năng” buộc phải có những động thái phòng bị, bảo vệ loại người đã “lỡ” nắm quá nhiều những bí mật! Xin không bàn đến khía cạnh “nghiệp vụ” của vấn đề; nhưng nếu như để viết về một nhân vật hoạt động tình báo thì không thể bỏ qua những năm tháng phải đau đớn, dằn vặt khi bị chính đồng đội của mình nghi ngờ như PXÂ đã trải qua.

Với một nhân vật có quá nhiều bí ẩn như PXÂ, lại là người “ngoại đạo”, tôi không dám bàn sâu hơn, nhưng với tinh thần “phản biện” mà Đảng luôn yêu cầu các tổ chức xã hội thực hiện để tiếp cận chân lý và tránh bớt lầm lẫn, xin thử dẫn ra một sự cố trong lịch sử và đặt nó bên cạnh trường hợp PXÂ:
Trên Tạp chí “Xưa và nay” số 267, tháng 9/2006, trong một bài viết về ông Phạm Quỳnh, tác giả Phạm Tôn đã nhắc lại một tư liệu như sau: “Sau khi ông Tôn Quang Phiệt từ Huế ra gặp Cụ Hồ và báo: “Phạm Quỳnh đã bị xử mất rồi!”, thì Cụ Hồ ngồi lặng người một lúc lâu rồi nói:
“Giết một học giả như vậy thì nhân dân được gì? Cách mạng được gì?...”.
Với PXÂ, liệu có thể đặt một câu hỏi: “Nghi ngờ, theo dõi một người như PXÂ thì nhân dân được gì? Cách mạng được gì?...”.
Có thể nêu vấn đề như thế, vì ông nắm bí mật của địch truyền về cho ta là chủ yếu; bí mật của ta mà ông biết được nhiều lắm là các “đường dây” thì khi còn ở trong lòng địch, nếu muốn, ông đã thừa sức cung cấp cho chúng, đâu đợi đến ngày đất nước toàn thắng mới lo “móc nối” để tiết lộ cho đối phương?
Cũng như Cụ Hồ, đặt câu hỏi như thế là tỏ ý tiếc. Phải! Thật tiếc, nếu như PXÂ được tin tưởng và trao cho ông làm đại diện (hay đại sứ) của Việt Nam tại Mỹ ngay sau khi chiến tranh kết thúc thì có lẽ nhiều sự ngộ nhận và chậm trễ đã được hạn chế…

Theo lời PXÂ do tác giả cuốn sách ghi lại thì việc PXÂ chỉ đường cho Trần Kim Tuyến chạy thoát ngày 30/4/1975 là căn cứ quan trọng khiến các cơ quan “chức năng” đặt nhiều nghi vấn và buộc ông phải tường trình nhiều lần. Không ai dám nói chắc tận đáy lòng PXÂ đã nghĩ gì, nhưng qua nhiều chi tiết trong cuốn sách, chúng ta có thể đoán rằng: với ông, ngày 30/4/1975, trách nhiệm của ông trước Tổ quốc đã hoàn thành, đất nước đã được độc lập tự do, chẳng có ích gì việc bắt bỏ tù hoặc giết một kẻ cùng đường như Trần Kim Tuyến, nhất là ông ta - dù là vô tình - đã từng là nguồn cung cấp nhiều tài liệu mật để PXÂ báo về bộ chỉ huy cách mạng. Liệu chúng ta có thể đặt vấn đề: Bắt hoặc giết một kẻ như Trần Kim Tuyến thì
nhân dân được gì? Cách mạng được gì? Trong khi cách xử trí của PXÂ thì đã khiến đối phương hiểu ra rằng một điệp viên cộng sản chiến đấu quên mình vì Tổ quốc vẫn có thể là một con người nhân ái và chung thuỷ.
Có lẽ cũng nên nói thêm một điều: Yếu tố quan trọng giúp PXÂ lập nên chiến công vĩ đại chính là LÒNG TIN! Ông tin vào chính nghĩa, tin vào sự toàn thắng cuối cùng của dân tộc mình và tin vào cả sự hướng thiện của nhân dân Mỹ. Vì có lòng tin như thế, ông mới muốn cho con trai Phạm Xuân Hoàng Ân của ông sang học ở Mỹ. Ân đã học thành tài và trở về góp phần làm chiếc cầu nối giữa hai dân tộc Việt Nam và Mỹ - làm người phiên dịch cho Chủ tịch Nguyễn Minh Triết với Tổng thống Mỹ trong chuyến ông ta sang thăm Việt Nam. Ân đã nói với tác giả cuốn sách:
“Cháu ước gì ba cháu có mặt ở đây để chứng kiến những giây phút này. Giọng của cháu đôi lúc đã nghẹn lại trong quá trình phiên dịch cho Tổng thống và Chủ tịch Nước, cháu đã cố kiềm chế những giọt nước mắt của mình vì quá xúc động…”.
Chúng ta có cảm tưởng như đọc một đoạn kết có hậu trong các chuyện cổ tích Việt .
                                                                  Trường An - Huế, tháng 3/2008
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(nguồn TCSH số 230 - 04- 2008)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.