Lhasa vẫy gọi

15:34 06/07/2009
NGUYỄN VĂN DŨNG                                KýSau gần nửa tháng rong chơi suốt hai đầu thượng hạ Ai Cập, tôi trở lại Paris chuẩn bị chuyến du hành sang Hy Lạp. Bỗng được tin của Văn Cầm Hải từ quê nhà: “Thầy về gấp. Đi Tây Tạng ngày 15/9”. Tôi quyết định ngay. Lúc ấy tôi không hiểu vì sao. Bây giờ thì tôi đã hiểu vì sao.

Thủ đô Lhasa (Ảnh: Internet)

Có nhiều cách đến Tây Tạng. Chúng tôi chọn con đường từ Hà Nội đi Nam Ninh, từ Nam Ninh bay sang Thành Đô, rồi từ Thành Đô bay lên Lhasa. Sắp đáp xuống phi trường Lhasa, nhìn qua cửa sổ tôi có cảm tưởng như máy bay đang trượt trên bề mặt của mặt trăng. Dưới cánh máy bay lớp lớp những núi đá nhọn hoắt và hì hợm. Quanh các triền núi, cát không biết từ đâu trào ra lênh láng, như núi từ cát mà chui lên vậy. Ra khỏi máy bay, tôi bị choáng và bỗng thấy mình mất hết khí lực. Tôi cố trấn tĩnh, hít thật sâu và đi từng bước. Vài hành khách trong đoàn loạng choạng rồi quỵ trên đường đi. Người ta nói đã có trường hợp nhiều hành khách không chịu nổi “độ cao” phải lên máy bay về lại Thành đô. Chao ôi, đất của “chư thiên” sao mà dữ dằn thế. Hay đó chỉ là cách thử thách những tấm lòng thành. Xe Bus đưa chúng tôi về Lhasa qua đoạn đường 120 km dọc theo sông Tsangpo. Không ngờ có ngày tôi được chiêm ngắm dòng sông thiêng liêng ấy. Hai bên đường lưa thưa từng cụm dân cư. Đó là những ngôi nhà vuông, mái ngang, tường bằng đá hoặc bằng đất, trông xơ xác, nghèo nàn. Phía trước, nhà nào cũng dựng phướn cầu nguyện. Phướn là một cành cây buộc nhiều mảnh vải năm màu trắng, xanh, lam, vàng, hồng, phất phơ trong gió. Người ta thường cầu những gì mình không có. Vậy thì tôi biết họ cầu gì rồi.

Lhasa là kinh đô của Tây Tạng, ở độ cao 3.700m so với mặt nước biển. Lhasa đọc trại của từ Rasa. Ngày trước, kinh đô Tây Tạng đặt ở lũng Yarlung bên bờ sông Tsangpo. Đời Tùng Táng Cương Bố (617 - 651), nhà vua cho dời đô về Lhasa. Một trong những công trình được xây dựng đầu tiên ở vùng đất mới là đền Jokhang. Tương truyền chỗ xây đền ngày xưa là hồ nước, lại là trái tim của một ma nữ, hắn ra sức ngăn cản kế hoạch xây đền. Công chúa Văn Thành dùng phép trừ được ma nữ rồi cho dê thần chở đất lấp hồ. Tiếng Tây Tạng dê là RA và đất là SA. Từ đó nơi nầy được gọi là Rasa, lâu dần thành Lhasa.

Các nhà địa chất quả quyết rằng, 40 triệu năm trước, Tây Tạng nằm sâu dưới đáy biển - Bán đảo Ấn Độ di chuyển đụng phải lục địa Châu Á rồi đùn lên thành cao nguyên Tây Tạng, trong đó có dãy Hy Mã Lạp Sơn với ngọn Everest cao 8.848,2m, và hàng trăm ngọn núi khác cao trên 7.000m. Ngày nay trên cao nguyên Tây Tạng vẫn còn nhiều hồ nước mặn với đủ các loài hải sản. Ở phố Barkhor, nơi các quầy mỹ nghệ người ta bày bán nhiều vỏ ốc biển làm quà kỷ niệm. Không biết chúng là hậu duệ thứ bao nhiêu đời của cụ ốc tổ 40 triệu năm trước. Lên núi cao tìm cái chỉ có dưới biển sâu, đó là điều lạ lùng trong vô số những điều lạ lùng của vùng đất được mệnh danh là “Nóc nhà thế giới” nầy.

Đừng chờ đợi những gì bạn từng gặp, Tây Tạng thuộc về một cảnh giới khác. Là nơi trời và đất gặp nhau. Mặt trời, mặt trăng cùng muôn ngàn tinh tú là bè bạn. Mây chỉ một màu trắng tinh khôi để cho mặt trời mặc sức tô điểm. Nước không bao giờ sôi tới 80 độ. Còn nắng thì vàng hươm và say đắm lạ lùng...

Thiên nhiên Tây Tạng rực rỡ một thứ sắc màu thuần tuý, thanh tịnh và trong suốt. Nó như luôn muốn nói với ta điều gì. Nó đánh thức năng lực trực giác nơi mỗi con người. Nó vừa khơi gợi trí tưởng tượng vừa kích thích sự suy tưởng. Nó giúp tìm lại cái tâm thất lạc. Nó trải rộng đôi cánh cho những ai muốn vươn ra khỏi thế giới chật hẹp của mình.

Không gian Tây Tạng trong vắt và sâu thẳm, khiến mọi vật ta nhìn tưởng như rất gần mặc dù nó ở rất xa. Tây Tạng rộng gấp bốn lần diện tích Việt Nam. Đất trời mênh mông, tĩnh lặng và sạch như vô nhiễm. Tây Tạng là cội nguồn của những con sông thiêng: Hằng Hà, Ấn Hà, Brahmaputre, Mê Kông, Hoàng Hà, Dương Tử. Đỉnh Ngân Sơn là trung tâm thế giới, là núi Tu Di của cõi hồng trần.

Độ cao trung bình 4.875m, nghĩa là cao hơn cả ngọn núi cao nhất Châu Âu, Tây Tạng là vùng đất biệt lập và cao nhất thế giới. Do áp suất không khí thấp, dưỡng khí loãng, lượng oxy trong não thiếu khiến máu huyết lưu thông không đều, dẫn đến tình trạng khó thở, nhức đầu, mất ngủ là thử thách thường trực đối với khách hành hương. May thay, mà thật lạ lùng, tuy mất ngủ nhưng đầu óc lúc nào cũng tỉnh táo. Những đêm thao thức trên “nóc nhà thế giới” giúp ta ngộ ra được nhiều điều. Vậy đó, những ai đến Tây Tạng với cái tâm để được nhìn ngắm chứ không phải để chiếm đoạt hẳn sẽ rút ra được bao điều minh triết..

Tây Tạng là vương quốc của tuyết, cũng là đỉnh cao của nắng cháy. Mặt trời với tia cực tím hào phóng đến nỗi dù tôi đã cần mẫn bôi kem chống nắng, ngày về vẫn bị nhà tôi phê “đen như cột nhà cháy”. Tây Tạng, có sự cách biệt rất lớn về nhiệt độ giữa lạnh và nóng, giữa đêm và ngày, giữa trong im và ngoài nắng. Ngặt nghèo đến nỗi trong điều lệnh của tổ chức Tour ghi rõ, “Tuyệt đối cấm du khách không được tắm và gội đầu”. Còn với dân địa phương? Người ta nói “Dân Tây Tạng trong đời chỉ tắm 3 lần - lúc mới sinh, khi cưới vợ cưới chồng và lúc chết”. Tôi không tin. Có lẽ đó là cách người ta rắc thêm chút hương hoa cho vùng đất vốn quá nhiều huyền thoại nầy. Bằng chứng, hôm thăm trường Đại học Lhasa, mấy cô sinh viên Tây Tạng cô nào cô nấy nước da trắng ơi là trắng, còn hai má thì hây hây chẳng kém chi đoá “Tạng hồng hoa” trên tuyết.

Từ cửa sổ phòng tôi ở nhìn ra phía trước là dãy núi cao ngất, trong vắt và sâu hun hút. Núi Tây Tạng không có vẻ trầm mặc nhưng trông đầy uy lực. Hình như nó vẫn thường hằng vậy từ thuở hồng hoang. Tôi thích ngắm dãy núi ấy mỗi chiều và mỗi sáng. Mới chiều hôm qua xanh ngắt một màu, sáng thức dậy đã thấy tuyết trắng xoá trên các đầu non. Núi Tây Tạng có dáng riêng, đa sắc màu, nhiều tầng nhiều lớp. Sau các tầng núi thường là các ngọn tuyết sơn cao vút trời mây và sáng láng dưới ánh trăng đêm. Người ta nói trên các ngọn tuyết sơn ấy là trú xứ của những bậc Thánh nhân, những vị Bồ tát, những Đạo sĩ sống cô tịch và độc cư để tu tập thiền định. Có phải vì thế mà núi ở Tây Tạng luôn tỏa ra nguồn uy lực vô song.

Tây Tạng là vùng đất đầy những bất ngờ. Cái diệu kỳ tàng ẩn khắp nơi, rồi chẳng theo qui luật nào cả, chúng cứ thế mà vụt ẩn vụt hiện: Con đại bàng lẻ loi trên đỉnh tháp, mây trắng vương vấn đầu non, đoá hoa vàng trên đá, khu đền cổ hoang phế thinh lặng trước hoàng hôn... Giữa thành phố Lhasa hiện đại hao hao giống với một thị trấn của người Tàu hơn là kinh đô xứ Phật, thi thoảng ta gặp trên đường một vài phụ nữ Tây Tạng trang phục truyền thống, tay xoay xoay bánh xe Mani, miệng lâm râm cầu nguyện. Khuôn mặt họ hằn sâu nét khắc khổ, nhẫn nhục và thánh thiện, không cách chi đoán được tuổi đời - có thể là 100, cũng có thể chỉ mới 40. Và cứ thế họ lặng lẽ đi, như chính cuộc hành trình của dân tộc họ. Có lần, khi xe chúng tôi đi bên nầy sông. Bên kia sông là dãy núi đá cằn khô, hoang dã. Bỗng giữa lưng chừng núi, tôi nhận ra hai bóng người. Họ ngồi sát nhau, cùng nhìn Yarlung Tsangpo tuôn chảy. Trong các giấc mộng, tôi đã gặp hình ảnh ấy nhiều lần: Con người nguyên thuỷ và một thế giới thời hồng hoang. Một thế giới chưa hề được điểm tô, màu mè, sang cả; một thế giới trần trụi đúng với bản chất uyên nguyên của nó. Không biết do đâu con người đã biến dạng đến nỗi không còn nhận ra cả “bản lai diện mục” của mình... Có phải đó như là hình ảnh của một thế giới ban đầu, hay cũng sẽ là hình ảnh của một thế giới sau cùng chỉ còn hai con người với trái tim nặng trĩu. Ý nghĩ ấy làm xúc động tôi tận đáy lòng. Lần khác, hôm qua cầu ngược sông Sangpo, tôi ngây người vì không biết từ đâu cùng trôi theo dòng một làn sương sớm, kỳ ảo và mong manh như giấc mộng. Tôi vội rút máy ảnh, nhưng khi quay lại thì không còn thấy đâu - như giấc mộng và rồi nó cũng tan biến như giấc mộng, chỉ còn lại trong tôi mối cảm hoài... Phải qua bao lần hối tiếc vì để tuột mất những khoảnh khắc tuyệt vời không bao giờ gặp lại, tôi mới rút ra được bài học nầy: lên Tây Tạng, tốt nhất là mang máy ảnh trước ngực và sẵn sàng bấm.

Đoạn đường khoảng 400 km từ Lhasa đến Shigatse là con đường hùng vĩ và hiểm nguy nhất mà đời tôi từng đi qua. Từ Lhasa theo hướng Nam chúng tôi trở lại thung lũng Yarlung, vượt sông Tsangpo, rẽ phải, và xe bắt đầu cuộc trèo đèo vượt núi. Anh tài xế người Tứ Xuyên. Vẻ trầm tĩnh và oai vệ của anh làm tôi phần nào yên lòng. Tôi không hiểu vì sao người ta đưa du khách đi theo con đường hiểm nguy đến thế. Đó là con đường nhỏ gồ ghề cát sỏi. Một bên tầng tầng núi đá, một bên hun hút vực sâu. Không cỏ cây, không bóng người, không trụ chắn. Bốn bề hoang vu và tĩnh lặng tuyệt đối. Tôi có cảm tưởng như có một bàn tay vô hình nào đó đang dắt chúng tôi đi và sẵn sàng ném chúng tôi xuống vực thẳm. Ai đã từng đi qua đoạn đường nầy chắc chẳng còn gì trong đời làm người ta sợ. Chúng tôi dừng chân trên đỉnh đèo Khampa, ở độ cao 4.794m. Trước mắt chúng tôi là hồ Yamdrok xanh một màu xanh ngọc bích. Tây Tạng có nhiều hồ lớn, thiêng liêng và đẹp vào hàng đệ nhất thiên hạ. Yamdrok là một trong những hồ thiêng ấy. Bên trái đèo, ngọn tuyết sơn che cả một góc trời. Một em bé Tây Tạng hai gò má đỏ au vì nắng cháy nài nỉ tôi mua con chó con. Đôi mắt em thiết tha, khẩn cầu, hy vọng. Và khi tôi từ chối, đôi mắt ấy bỗng tối sầm lại - đôi mắt ấy còn đọng mãi trong tôi.

Xe tiếp tục rong ruổi trên đoạn đường khoảng 50 km men theo bờ hồ. Lúc nầy bên phải chúng tôi là dãy tuyết sơn hùng vĩ, từ đó toả ra vô số những con suối tung bọt trắng xoá đổ nước vào hồ. Tôi như lạc vào một thế giới thần tiên mà ngay cả trong các giấc mơ tôi cũng chưa bao giờ gặp. Qua khỏi hồ Yamdrok, xe bắt đầu vượt núi Nojin Kangsa, dừng lại đỉnh đèo Karo ở độ cao 5.010 m. Tôi từng có cơ duyên với nhiều đỉnh cao: Mount Rainier, Mont Blanc, Phú sĩ... nhưng đây mới là đỉnh cao nhất mà tôi may mắn đặt chân đến. Từ đây về hướng Tây Nam khoảng 600 Km là ngọn Everest cao nhất thế giới. Về hướng Tây khoảng 1.000 Km là đỉnh Ngân Sơn, trú xứ của thánh thần, giấc mơ hành hương của hàng triệu người trên khắp thế giới. Trên đầu tôi bầu trời sâu thẳm và xanh lạ lùng. Một mình giữa thiên nhiên vô tận, trời đất bao la. Lòng tràn đầy niềm an lạc và biết ơn. Tôi gởi vào thinh không lời nguyện cầu chân thành của tôi cho một thế giới hoà bình và tốt lành. Mong sao tôi đừng bao giờ quên phút giây nầy.

Từ đèo Karo đến Gyantse và Shigatse, xe chạy qua một vùng thung lũng xanh tươi, trù phú. Người tài xế như chủ tâm cho chúng tôi nghe những bài dân ca Tây Tạng. Những bài dân ca chan chứa giai điệu ngọt ngào, đầm ấm, xao xuyến, mênh mông... Nó đưa tôi trở về với Tây Tạng ngày xưa: Nơi nầy, bên bờ suối trong lành, những chàng trai cô gái Tây Tạng trang phục truyền thống, nhảy múa, ca hát, yêu đương, thề thốt, hẹn hò... Nơi kia, trên thảo nguyên mênh mông, sau một ngày lao động, đôi vợ chồng trở về trên lưng ngựa; họ cùng hát những bài tình ca, cùng mong gặp những đứa con thương yêu đang chờ đợi ở nhà, cùng mơ về ngày mai tươi sáng. Hôm đi thăm đền Potala, tôi kinh ngạc vì nơi đây có hàng vạn vạn bức tượng Phật và Bồ tát. Mỗi bức tượng là một tác phẩm nghệ thuật. Tôi không hiểu người nghệ sĩ tài hoa nào đã tạc nên những bức tượng ấy. Bây giờ thì tôi đã hiểu. Một dân tộc đất trời mênh mông và những con người phóng khoáng, yêu tự do, giàu ước mơ, niềm tin, tình yêu, lòng chung thủy... Không nghi ngờ gì nữa, chính họ là tác giả của vạn vạn những bức tượng và các công trình nghệ thuật vô song của nền văn hoá Tây Tạng. Tôi thầm cám ơn anh tài xế đã cho chúng tôi nghe những giai điệu tuyệt vời của dân ca Tây Tạng. Mỗi lần đi đó đi đây, tôi không hay xông vào chợ mua đủ thứ hàng hoá. Lần nầy cũng thế, rời Tây Tạng, tôi chỉ mang theo ba món quà kỷ niệm: một con ốc biển mua ở phố Barkhor, một viên sỏi tôi nhặt trên đỉnh Karo của Hy Mã Lạp Sơn, và một đĩa dân ca Tây Tạng. Với tôi như thế đã là đủ lắm rồi.

Từ Shigatse trở lại Lhasa chúng tôi đi theo con đường mới dọc sông Tsangpo. Sông Tsangpo bắt nguồn từ Ngân Sơn, chảy từ Tây sang Đông dọc theo Hy Mã Lạp Sơn rồi đổ ra vịnh Bengale trước khi hào phóng trích một phần sinh khí cho các con sông lớn Hoàng Hà, Dương Tử, Cửu Long... Từ cội nguồn, Tsangpo không màu mè, làm dáng làm duyên. Sông, đục màu đất đen, chảy xiết, như để kịp mang sinh khí tài bồi cho một nơi nào đó. Hoá ra cũng như con người, để có dòng nước mát lành hoà thân vào biển cả, sông cũng phải tự mình rèn giũa, chắt lọc, gạn đục khơi trong. Bên phải chúng tôi, sông Tsangpo khi gần, khi xa, khi ẩn sâu dưới tầng tầng vực thẳm chỉ còn thấp thoáng như một dải lụa đào.

Sau một tuần ngất ngây với Tây Tạng, đến khi bắt đầu thích nghi được với “độ cao”, bắt đầu có đủ sức khoẻ và tâm thế để tiếp nhận và cảm nhận, thì cũng là lúc phải tạm biệt Lhasa. Lòng cứ bồi hồi, luyến tiếc. Đêm cuối trước khi rời Lhasa, tôi không ngủ. Tôi một mình bên cửa sổ, lặng lẽ ngắm sao trời. Đêm Tây Tạng hư ảo lạ lùng. Bầu trời sâu thẳm không gợn mây. Ngàn sao sáng rực và gần gụi đến có thể chạm tới được. Tôi tưởng như mình đang bay vào vũ trụ. Lòng tràn đầy một cảm giác an lạc không nói nên lời. Mọi cánh cửa cảm thức như được mở toang. Có những công án bấy lâu bị vùi lấp trong bụi bặm trần gian, trong bộn bề công việc, trong mù mờ tâm trí, nay bỗng hiện ra, rõ mồn một. Và diệu kỳ thay, chúng đều được soi sáng một cách thấu đáo. Đi du lịch quí nhất là cái còn lại sau khi mọi thứ đã qua đi. Tôi muốn khắt sâu vào tâm tưởng bầu trời đêm nay vì tôi biết rằng nó còn trở lại với tôi nhiều lần trong đời những khi tôi cần sự tĩnh lặng và cô tịch để nhìn lại mình, và nạp năng lượng cần thiết để lên đường mà tiếp tục cuộc tuần hoàn của phận người.

Có những điều dưới trần gian kia chỉ những người thông minh nhất mới có thể nhận ra bằng tri kiến của mình, còn ở đây, bất cứ ai cũng có thể cảm nhận được từ cái tâm vô phân biệt. Đó là điểm đặc trưng của cảnh sắc và văn hoá Tây Tạng. Hy vọng rằng rồi đây, khi nhân loại chín chắn hơn, người ta sẽ chọn Tây Tạng làm khu “tĩnh tâm” cho mọi người, đặc biệt cho những ai mà quyền năng của họ chi phối cả sinh mệnh trái đất và hoà bình, an vui của nhân loại.

Dưới sức nặng của các cuộc cách mạng văn hoá, của kinh tế thị trường, của công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá, không biết bấy giờ Tây Tạng có còn là Tây Tạng nữa không? Ý nghĩ ấy cứ đeo đẳng tôi suốt quãng đường về.

Huế, 10/2003
N.V.D
(179-180/01&02-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • THANH TÙNG            Ghi chépRa giêng Canh Dần, tết nhất vừa xong, tình cờ lướt mạng thấy Vitours đang mời đối tác tham gia famtrip Khám phá Cố đô Vương quốc Thái Lan và Tam giác Vàng. Tôi đăng ký ngay, dù chỉ còn 3 ngày nữa là khởi hành.

  • THU TRANG (Pháp)Vài tháng nay ở Pháp đã rộn ràng xảy ra nhiều chuyện đáng để chúng ta suy nghĩ. Có lẽ trước hết là việc chiếc tàu Erika chở dầu đã bị vỡ hầm chứa ngoài khơi, biển Bretagne vùng Tây nước Pháp. Một đại nạn! Dầu đã bị sóng đưa vào bờ làm đen bẩn hầu hết các bờ biển, bãi tắm nổi tiếng.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGSakuya là vị nữ thần cực kỳ xinh đẹp của xứ mặt trời mọc. Nàng là người đầu tiên tự tay gieo hạt giống cây anh đào trên núi Phú Sĩ. Mùa xuân hoa anh đào nở, đẹp cái đẹp lộng lẫy mê hồn của nàng. Bởi thế, người Nhật gọi hoa anh đào là Sakura - đọc trại từ Sakuya. Ngày nay, hoa anh đào đã có nhiều loại và mọc nhiều nơi, nhưng không nơi đâu đẹp bằng hoa anh đào ở núi Phú Sĩ.

  • VŨ LÊ THÁI HOÀNGTrong ánh nắng vàng rực tuyệt đẹp, giữa một New York hối hả, tấp nập, tua tủa nhà chọc trời, kiêu hãnh hiện ra bóng hình một phụ nữ khổng lồ tay cầm ngọn đuốc cháy sáng soi đường vào Tân Thế Giới.

  • ĐẶNG THỊ HẠNHMùa rét năm ấy ở Paris đã không có tuyết. "Một điều rất đặc biệt", ông Xuân Thủy nói với tôi như vậy khi tôi đi dạo với ông trong khu vườn bao quanh một cơ quan của Đảng Cộng sản Pháp dành riêng cho phái đoàn thương lượng của ta ở Paris .

  • HÀ PHẠM PHÚTôi chọn cái tựa trên cho bài viết một phần vì tôi bị ám ảnh bởi bộ tiểu thuyết Thiên long bát bộ của Kim Dung và bài của Quách Phong, một nhà nghiên cứu trẻ công tác tại đài phát thanh truyền hình châu Đại Lý - viết về chuyến thăm Đại Lý của nhà văn rất nổi tiếng này.

  • VÕ QUANG YẾNNúi cao cũng có đường trèo,Đường đi hiểm nghèo cũng có lối di.                                                Ca dao

  • VÕ QUANG YẾNNguyễn Hải Đang, 20 tuổi xuân xanh, xúng xính trong bộ y phục mới tinh trường Bách Khoa Ecole Polytechnique, thường được gọi tắt là X.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGKathmandu là kinh đô của vương quốc Nepal, nằm dưới chân Hy mã Lạp sơn. Là thành phố của tôn giáo và nghệ thuật, của nghi thức và lễ hội, của cổ kính và hiện đại, của thánh thiện và tâm linh, của suy tư và khát vọng, của du lịch và mộng mơ, của nắng gió và tuyết. Ngày nay, Kathmandu còn là thành phố của thanh bình và chiến tranh.

  • PHẠM THỊ ANH NGABài này nhằm giới thiệu một vài nét về diện mạo thi ca Pháp và một số hoạt động liên quan đến thơ trong xã hội Pháp những năm gần đây.

  • ĐINH CƯỜNGViện Bảo tàng Mỹ thuật Luxembourg, Paris vừa chấm dứt cuộc triển lãm qui mô, hàng trăm bức tranh của một họa sĩ lẫy lừng, bi thảm nhất thế kỷ hai mươi: Amedeo Modigliani.

  • ĐẶNG TIẾNNước Pháp có những thành phố nhỏ, lừng danh nhờ một sinh hoạt văn hoá. Ví dụ như Cannes, Deauville với những Đại Hội Điện Ảnh. Hay Angoulême nổi tiếng từ 30 năm nay với truyền thống Festival Quốc Tế Truyện Tranh BD, do chữ Bande Dessinée viết tắt, có nghĩa là băng hoạt họa (strip cartoon). Thành phố lịch sử với năm vạn dân, cách Paris hơn 400 km về phía Tây Nam, từ ngày 23 đến 26 tháng 1-2003, trở thành trung tâm thế giới về nghệ thuật Truyện Tranh BD, lần thứ 30.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP                         Ghi chépMột chiều cuối đông năm ngoái tại góc Quán Cũ 25 Phan Đình Phùng, khi biết chúng tôi chuẩn bị chuyến khảo sát văn hóa tại Nhật Bản, giáo sư Đại học ngoại ngữ Tokyo Kawaguchi đề nghị chúng tôi nên bố trí kế hoạch đến Nhật vào mùa xuân để còn kịp ngắm hoa anh đào. Y lời, đúng ngày mở đầu tháng Tư năm nay, PGS.TS Phan Trọng Thưởng, Viện trưởng Viện Văn học và tôi lên đường công du sang Nhật khi biết chắc hoa anh đào đã nở.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG                     Ghi chép Truyền thống trong hội nhập...Rời xe bus số 64 chúng tôi rảo bộ trên con đường lát đá tảng của phố Della Concilia Zionli giữa hai hàng cột đá trông như những ngọn nến khổng lồ để đến với nơi mà bất kỳ người dân công giáo nào cũng hằng mơ ước.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGTôi mới có ý định leo núi Phú Sĩ trên đường từ Tokyo về cố đô Kyoto. Chiếc tàu siêu tốc chạy ngang qua vùng núi Fuji. Bên ngoài, trông Fuji hùng vĩ và đẹp hơn trong ảnh nhiều. Trên nền xanh thẳm của Công viên Quốc gia Fuji-Hakone-Izu, hai cánh núi từ tít tắp hai đầu Bắc Nam như đôi tình nhân thiên thu gặp lại, tràn về phía nhau. Và khi gặp nhau, cả hai hoà thành một, rồi bay vút lên trời, xuyên qua mấy tầng mây, để lộ giữa thinh không cao ngút cái chỏm mĩ miều như đầu ngọn bút lông.

  • TRẦN LỘC HÙNG1. Bạn bè tôi thường nói: “Không hiểu nước Nga nuôi mày kiểu gì mà tới bây giờ mày vẫn yêu nước Nga”. Vợ con tôi cũng vậy. Nước Nga dưới con mắt của những người thân của tôi hoàn toàn khác tôi. Đơn giản vì tôi đã tới nước Nga từ những năm tôi mới 17 tuổi, hơn nữa tôi đã sống, học tập và làm việc ở nước NGA ngót nghét 10 năm.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG                           Bút kýChuyện kể rằng, vào một ngày tuyết trắng Tây kinh, Võ Tắc Thiên bỗng cao hứng lệnh cho tất cả loài hoa, nội trong một đêm phải nở hết. Sáng hôm sau, tuy giữa mùa đông giá lạnh, các loài hoa đều ríu rít nở, trừ... mẫu đơn. Võ Tắc Thiên giận lắm, bèn phán đày mẫu đơn xuống Lạc Dương cho khuất mắt. Từ đó, Lạc Dương trở thành quê hương của hoa mẫu đơn.

  • LÊ BÁ THỰ           Bút kýNhận lời mời của Bộ Văn hoá và Viện sách Ba Lan, tôi đi dự Đại hội Dịch giả Văn học Ba Lan toàn thế giới lần thứ nhất. Sau khi đến Vacsava,  sáng 11 tháng 5 tôi đáp xe lửa xuống Krakow , thành phố cách thủ đô Vacsava trên 300 cây số. Ngồi bên cửa sổ con tàu, tôi ngắm cảnh mùa xuân hai bên đường: những rừng thông tươi tốt, những cánh đồng lúa mì xanh xanh trải dài tít tận chân trời.

  • VI THÙY LINH           Tuỳ bútNgười Trung Quốc (TQ) có câu: “Trên trời có thiên đàng, dưới có Tô Châu, Hàng Châu”. Chỉ thoạt nghe, đã thấy người ta thật tự hào, về cảnh đẹp thành phố (TP) này đến thế nào, trên đất Đại lục dày đặc thắng cảnh, di tích, kỳ quan của Trung Hoa cẩm tú.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNG              Tản mạn từ Bruxelles Dưới mái hiên trạm gác cũ Porte de Ninove gần chỗ tôi ở có sống một cư dân đơn độc và lưu niên. Gã bù xù, tôi chỉ biết gọi gã như thế, nom chỉ trạc ngoài ba mươi nhưng có vẻ như đã cũ nát lắm rồi. Không ai biết gã từ đâu dạt vào, ở đó từ bao giờ.