Lễ Nam Giao ở Huế dưới góc nhìn nhân văn

15:56 31/07/2009
*Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.

Với vị thế của một đất nước có điều kiện phát triển sớm, các vị vua Trung Hoa thời cổ đại đã tự cho mình là Thiên tử: con trời. Thiên tử nhận mệnh trời để cai trị thiên hạ. Chỉ có Thiên tử mới có đặc quyền thay mặt muôn dân chủ trì việc tế trời đất, linh thần. Sách Lễ Ký của Trung Hoa đã quy định: “Thiên tử tế trời đất, tế bốn phương, tế núi sông, tế ngũ tự (thần cửa, thần ngõ, thần giếng, thần bếp, thần nhà); chư hầu chỉ được tế thần địa phương, tế ngũ tự; quan đại phu chỉ được tế ngũ tự;  kẻ sĩ chỉ được tế tổ tiên”(1). Nhiều triều đại đã lấy đó làm thước đo, phân định rạch ròi giềng mối của xã hội.

Đặc quyền tự phong của những vị vua Trung Hoa rốt cuộc cũng chỉ tồn tại trên các trang giấy. Ở Việt Nam, dưới thời nhà Lý, với tinh thần “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”, từ năm 1153 vua Lý Anh Tông đã cho đắp đàn Viên Khâu ở phía nam thành Thăng Long để làm lễ tế Giao, tổ chức tế trời, mặc nhiên xác định vị thế độc lập của triều đình Đại Việt.

Từ đó, những triều đại quân chủ ở Việt Nam đã nối tiếp truyền thống của triều Lý, định kỳ tổ chức lễ tế trời tại Giao Đàn. Lễ tế Giao cuối cùng của triều Nguyễn đã diễn ra vào lúc nửa đêm rạng ngày mồng mười tháng hai năm Ất Dậu (23-3-1945), chỉ mấy tháng trước lúc chế độ quân chủ Việt Nam cáo chung.

Lễ tế Giao không còn, nhưng âm hưởng vang vọng của lễ rước cung đình một thuở vẫn còn đọng lại trong tâm thức của một số người, nhất là cư dân ở cố đô Huế.


Lễ tế Nam Giao năm 1935 - (Ảnh: sankhauvietnam.com.vn)


*Những giá trị nhân văn trong lễ Nam Giao ở Huế

- Lễ Nam Giao ở Huế là hình thức tế lễ lớn nhất của triều đình nhà Nguyễn (đại tự), hợp tế cả trời, đất, thần linh và các vì tinh tú, biểu thị tư tưởng Thiên - Địa- Nhân, gắn kết giữa con người với thiên nhiên, vạn vật

Khác với hình thức thờ tự riêng biệt trời, đất, mặt trời, mặt trăng (Thiên Đàn, Địa Đàn, Nhật Đàn, Nguyệt Đàn) của Trung Quốc, lễ Nam Giao ở Huế là hình thức thờ cúng gắn kết thờ trời, thờ đất, thờ tiên đế và các linh thần thành một thể thống nhất. Ở  Viên Đàn, đàn hình tròn có vị trí trung tâm của đàn Nam Giao, ngoài hai án thờ trời (Hiệu Thiên thượng đế), thờ đất (Hoàng Địa kỳ), còn có các án thờ những vị vua triều Nguyễn. Ở tầng thứ nhì hình vuông (Phương Đàn), hai án thờ mặt trời (Đại Minh thần), mặt trăng (Dạ Minh thần) gắn với án thờ các vì sao, các vị thần núi, biển, sông, đầm, mây, mưa, gió, sấm, gò, lăng, mồ mả, đồng bằng, thờ thần năm, tháng và các vị thần trong trời đất.

Hình thức hợp tế trong lễ Nam Giao của triều Nguyễn mang một sắc thái riêng, thể hiện khá rõ tư tưởng gắn kết giữa trời, đất, con người và thiên nhiên môi trường, biểu thị một ý nghĩa có giá trị nhân văn của người Việt, khác rất xa với tư tưởng phân định rạch ròi trời- đất- ngày- đêm mà  gần như vắng bóng con người và thiên nhiên trong tế lễ truyền thống của các triều đình Trung Quốc.

- Lễ Nam Giao ở Huế là sự kết hợp tư tưởng “kính thiên- ái dân” (kính trời, thương yêu dân), “tế trời cốt để cầu phúc cho dân” của một số vua triều Nguyễn.

Đối với các vị vua Trung Quốc và Việt Nam, tế Giao thể hiện tư tưởng kính thiên- kính trời- theo quan niệm của Nho giáo. Đối với vua Minh Mạng, tế Nam Giao còn là “phải vâng theo đạo Trời mà mở rộng lòng nhân”. Đại Nam Thực Lục Chính Biên (đệ nhị kỷ) đã ghi lại một nhận định của vua Minh Mạng về lễ tế Giao “cùng với tháng trọng xuân, tế Giao là điển lớn, kính trời, tôn tổ, nên phải vâng theo đạo Trời mà mở rộng lòng nhân. Vậy hạ lệnh cho các nha môn coi việc hình, có văn án tội chém hay giảo đánh, xử quyết thì trước đông chí 3 ngày và sau tế Giao 10 ngày đều đình hành hình để thể đức hiếu sinh của Trời”. Trong chuẩn bị tế Giao năm 1840, vua Minh Mạng cho rằng “trách nhiệm làm vua có 4 điều không bao giờ được xao lãng là kính trời (kính thiên), làm đúng theo tổ tiên (pháp tổ), siêng năng công việc chính sự (cần chánh) và thương yêu dân (ái dân). Nay vì cầu phúc cho dân mà cất lễ tế lớn (lễ tế Giao)”

Các vua kế tiếp của triều Nguyễn cũng tuân thủ tư tưởng “kính thiên-ái dân” của vua Minh Mạng. Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu đã ghi lại lời của vua Thiệu Trị “kính thiên, pháp tổ, cần chánh, ái dân; đó là 4 việc rất lớn của đạo làm vua”. Vua Tự Đức trong di chiếu viết trước khi mất cũng nhắc đến 16 chữ “kính thiên, pháp tổ, cần chánh, ái dân, thân hiền, đồ trị, chí thiện, đôn thân” (kính trời, làm đúng theo tổ tiên, siêng năng công việc chính sự, thương yêu dân, thân với người hiền, lo trị nước, giữ điều thiện, yêu bà con).

Như vậy quan niệm kính trời của nhiều vị vua đầu triều Nguyễn đều gắn với tư tưởng thương yêu dân, được thể hiện khá rõ trong ý tưởng “tế Giao cốt để cầu phúc cho dân”.

- Lễ Nam Giao ở Huế gắn nghi lễ tế trời long trọng với hình thức lễ rước cung đình, tạo ra một lễ hội văn hoá mang đậm đặc trưng của xứ Huế xưa.

Là quốc lễ lớn nhất của triều đình, lễ Nam Giao ở Huế diễn ra theo một hệ thống nghi thức tế lễ hết sức long trọng. Chừng một tháng trước ngày tế giao, Bộ Lễ phải làm lễ kỳ cáo ở Giao Đàn, Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu và Thế Miếu. Vào ngày chánh tế, cuộc lễ còn phải tuân thủ nghiêm ngặt một loạt 16 nghi thức long trọng, bắt đầu từ việc vua rời Trai Cung ra Giao Đàn, đến lúc vua rời Giao Đàn về Trai Cung. Trình tự từng lễ tế được quy định chặt chẽ, có sự giám sát của các quan Đô sát, quan Ngự sử hay quan Khu đạo, bao gồm cả việc giám sát vua tuân theo các nghi thức tế lễ.

Tuy nhiên, không đơn thuần chỉ có các nghi thức tế lễ nặng nề, lễ Nam Giao ở Huế còn là một lễ hội cung đình, được thể hiện bằng một lễ rước hoành tráng, với một đạo ngự đông hàng ngàn người, gồm các hoàng thân, bá quan văn võ, binh lính, với các tổ chức lễ nhạc cung đình, múa hát cung đình đặc sắc, với voi, ngựa, tàng, lọng, cờ, quạt, đèn hoa, gươm kiếm, kiệu, liểng, xe vua... trải dài hàng kilômét, hai bên đường dân chúng lập hương án bái vọng, ngưỡng trông.

Đoàn ngự đạo được tổ chức thành ba phần: tiền đạo, trung đạo và hậu đạo. Tiền đạo mở đầu bằng hai thớt voi được đóng bành sơn son, có quản tượng và tượng binh điều khiển, các quan Đô thống, Thống chế cỡi ngự mã dàn hầu, cùng với phường trống Ngũ lôi đồng cổ, lính ngự lâm, cấm binh, kỵ binh đi hộ vệ các cỗ xe Long Đình, kiệu Cửu Long...

Trung đạo trực tiếp hộ tống xe vua, có quan Thống chế và các võ quan cỡi ngự mã theo hầu. Các ban Đại nhạc, Nhã nhạc, các đoàn vũ sinh, các Hoàng thân, Hoàng tử, đại thần, thái giám, thị vệ và lính ngự lâm, túc vệ theo hầu bên cạnh xe Long Liểng và kiệu Cửu Long...

Hậu đạo khép lại đoàn ngự đạo với các võ ban đại thần, đội chiêng trống, binh lính và hai thớt voi đi sau cùng.

Từ tiền đạo đến hậu đạo, đoàn rước cung đình lại rộn ràng với hàng trăm loại cờ lễ, cờ phan, tàng, lọng, kiếm, quạt, đèn hoa... tạo thành một lễ hội hoành tráng, đầy sắc màu rực rỡ.

Khởi đi từ Đại Nội đến đàn Nam Giao, đoàn đạo ngự lấy sự nghiêm trang làm trọng, hàng ngàn người đi trong tư thế kính cẩn, không tấu nhạc, không đánh chiêng trống. Nhưng khi lễ tế đã xong, đoàn ngự đạo từ Nam Giao hồi cung trong tiếng nhạc rộn ràng mà uy nghiêm, trang nhã. Những bài bản Đại nhạc, Nhã nhạc cung đình được trình tấu, 128 vũ sinh với trang phục của vũ điệu Bát Dật diễu hành trong tiếng chiêng, tiếng trống rộn ràng, báo tin mừng lễ thành với công chúng. Đoàn ngự đạo hồi cung trong sự ngưỡng vọng đầy thành kính của người dân, với mong ước quốc thái dân an, phong hoà vũ thuận, thiên hạ thái bình.

*Lễ Nam Giao ở Huế: từ sự tàn lụi đến nỗ lực phục dựng

Hình ảnh lễ Nam Giao đầy tính nhân văn từ đầu triều Nguyễn đã không kéo dài được lâu. Cùng với sự kiện kinh đô thất thủ năm 1885, đất nước mất quyền tự chủ, ngôi vua ở kinh thành vẫn còn, nhưng chủ quyền của đất nước nằm trong tay thực dân Pháp. Lễ Nam Giao từ đó rơi vào một nghịch cảnh đầy tính bi kịch. Thực dân Pháp vẫn duy trì triều đình nhà Nguyễn, vẫn “bảo hộ” lễ tế Giao, nhưng thực chất của hình thức quốc lễ nầy đã dần dần tàn lụi, ý nghĩa nhân văn của những đời trước cũng rơi rớt dần.

Đến nay, lịch sử của đất nước đã chuyển mình, bước vào thời kỳ độc lập và phát triển mang tính thời đại, lễ Nam Giao chỉ là một di sản của quá khứ còn vang vọng, cần được gạn đục khơi trong, tìm trong di sản những giá trị một thời để lựa chọn hướng phát huy và phát triển phù hợp.

Chuẩn bị cho Festival Huế 2004, hướng tới xây dựng Huế trở thành một thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam, với sự đồng ý của trung ương và sự ủng hộ của công chúng, tỉnh Thừa Thiên Huế  đã chủ trương lấy ý tưởng từ lễ tế Giao truyền thống: tập trung đề cao ý thức gắn kết giữa con người với thiên nhiên và môi trường sống; biểu thị khát vọng mong cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà; phục dựng lại vẻ đẹp hoành tráng của một lễ rước cung đình xưa ở Huế; giới thiệu lại không gian diễn xướng của những loại hình múa hát cung đình, trình tấu Nhã nhạc, Đại nhạc với công chúng và khách du lịch tham dự Festival.

Lễ hội Nam Giao trong Festival Huế 2004 chỉ mới phục dựng hình ảnh của đoàn ngự đạo hồi cung, từ Nam Giao về Đại Nội, chưa phục dựng lại diễn trình đầy đủ của một lễ tế Giao, bao gồm  lễ rước từ Đại Nội lên đàn Nam Giao và các nghi thức lễ tế tại Giao Đàn. Nhưng với hình ảnh của lễ rước cung đình được phục dựng một phần, gắn với hình thức lễ hội cộng đồng trong Festival Huế, mong rằng những ý nghĩa nhân văn một thời được đánh thức trong điều kiện mới sẽ đem lại một ít hương vị xưa mà vẫn gần gũi với cuộc sống hôm nay.

NGUYỄN XUÂN HOA
(182/04-04)




-----------------------
(1) “Thiên tử tế thiên địa, tế tứ phương, tế sơn xuyên, tế ngũ tự; chư hầu phương tự, tế ngũ tự, đại phu tế ngũ tự; sĩ tế kỳ tiên”.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LÊ CUNG

    Kỷ niệm 55 năm thành lập Đại học Huế (1957 - 2012)

  • Thừa Thiên Huế đang đứng trước cơ hội rất lớn để xây dựng Huế trở thành một đô thị lớn với đầy đủ tầm vóc, tính chất sánh ngang tầm với thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

  • Thời buổi internet thật tuyệt vời, nói vui theo “teen” kiểu “sát thủ đầu mưng mủ” thì quả là “tiện ích như cú hích”. Với nhà văn, tác phẩm viết ra xong không nhất thiết phải in thành sách, cứ post lên blog cũng có hàng nghìn hàng vạn bạn đọc truy cập, rồi cư dân mạng khắp nơi trên thế giới cập nhật thông tin, coppi, comment bày tỏ quan điểm, phô bày xúc cảm ngay, vui ra phết, chí tình ra phết.

  • Ngày nay, khi văn học không hoàn toàn bấu víu vào những đại tự sự mà thay vào đó là sự lên ngôi của tiểu tự sự thì thế giới trong văn chương trở thành những thế giới ảo, dung chứa tất cả những lệch pha và ngụy tạo so với thế giới khách thể. Người sáng tạo cũng từ đó ý thức được sức mạnh trong việc cách tân bút pháp và thay đổi cảm quan trong thế giới chữ của mình.

  • NGUYỄN VĂN TOÀN

    Té ra, cái thời nhân dân lao động làm chủ xã hội đã… xưa rồi Diễm. Và rằng, ở thời điểm hiện nay, VIP đã là một phần tất yếu của cuộc sống. Và họ cũng được dân gian nhìn nhận là những ông vua “con” ở cõi nhân tình thế thái khi sở hữu đầy ắp bao cơ man đô la và vàng bạc.

  • Huế là thành phố sông ngòi chằng chịt, từ sông đến đầm phá và biển. Đặc biệt, sông Hương và hệ thống thủy đạo kinh thành Huế cũng như các cồn bao quanh kinh thành phần lớn là hình ảnh mang tính biểu tượng của Huế, là một trong những cảnh quan chính của thành phố. Một sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sông nước và lịch sử thành phố có khả năng tạo ra một sản phẩm du lịch độc đáo cho Huế, mở ra nhiều cơ hội việc làm và thu nhập cũng như cải thiện cuộc sống người dân dọc hai bên bờ sông.

  • Tri thức vốn dĩ là tài sản chung của nhân loại. Tri thức là cái kho học thuật vô giá mà mỗi con người cần được trau dồi để bảo đảm vai trò, chức năng của mình trong xã hội.

  • Việc đại biểu Đỗ Văn Đương (TP HCM) đề nghị Quốc hội nên có Luật Từ chức (17/11) khiến dư luận xã hội có những phản ứng trái ngược nhau trong mấy ngày trở lại đây.

  • Việt Nam đang đứng trước con đường có khá nhiều chông gai và nhiều thử thách. Hơn bất cứ quốc gia nào trên thế giới, Việt Nam cần nhiều sự đổi mới để tiếp tục phát triển.

  • Trong những năm gần đây, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã tạo nên sự trù phú cho nhiều làng quê Việt. Tuy nhiên, song hành với đó bản sắc văn hóa làng Việt đang bị mai một dần; nếu không có giải pháp gìn giữ thì những làng quê truyền thống, những nếp làng xưa sẽ chỉ còn trong ký ức.

  • I. Ba bước chuyển hệ hình trong văn học Việt Nam và vai trò của các nhà văn trẻ

  • SHO - Có cảm giác như xã hội đang mặc nhiên coi chuyện chạy điểm cho con em, chạy theo thành tích cho học trò lâu ngày đã thành thói quen khó chữa khiến người ta quên rằng lòng tự trọng, lòng nhân ái là cao hơn hết và cần có mặt hơn hết! Có phải người ta đã quên đi lòng tự trọng, lòng nhân ái cần có hay không? Tôi không bi quan đến mức nói rằng người ta đã quên nhưng quả thật không thể dửng dưng trước câu hỏi đó.

  • Bài viết này có thể gọi là sự nối tiếp bài " Các cây viết trẻ Việt liệu đã thua trên sân nhà? " cách đây không lâu của tôi. Tôi viết bài tiếp theo này là vì ở bài viết trước có nhiều ý kiến thảo luận của người đọc đã mở ra cho tôi những cách nhìn sâu rộng khác hơn về chủ đề đã nói trong bài viết trước.

  • LTS: Tình cờ trong lúc lang thang trên mạng, SHO đã đọc được bài viết này trong một blog. Thiết nghĩ đây cũng là vấn đề nảy sinh thực trạng đáng buồn giữa các nhà văn trẻ và các nhà xuất bản, SHO đăng tải để chúng ta cùng cận cảnh...

  • Tháng bảy về rồi, nơi quê nhà quê mẹ đã thu chưa? Nơi con ở bây giờ, gió đã chuyển mùa, để rồi chiều nay khi lang thang trên con đường xứ sở, con chợt thảng thốt nhận ra rằng chỉ còn vài ngày nữa thôi, mùa Vu lan sẽ lại về. Nhanh thật đó!

  • Với đặc thù của môn Lịch sử ở bậc THPT, những câu hỏi mang tính khái quát về tiến trình lịch sử sẽ có giá trị hơn nhiều so với những câu hỏi đi quá sâu vào tiểu tiết mà chúng ta vẫn gặp trong các đề thi Lịch sử hiện nay và kết quả thi nhiều khả năng sẽ tốt hơn.

  • Dễ ai quên câu hát: “Trời sinh voi trời không sinh cỏ, Thượng đế buồn Thượng đế bỏ đi”.

  • Lòng yêu nước vốn rất sâu sắc và mãnh liệt xét trên 2 bình diện xã hội gồm giai tầng lãnh đạo(người nắm quyền cai trị) và người dân (kẻ bị trị) đã có lúc bị mai một và chỉ còn như cái bóng khi dân bị bóc lột, hà hiếp còn vua, quan chỉ chăm chăm cướp đoạt, làm giàu, hưởng lạc và chia bè kéo cánh.

  • Có những tình huống mà im lặng không giúp ta tránh né được hiểm nguy, ngược lại chỉ làm tăng mối họa vì khiến người khác lầm tưởng im lặng là bạc nhược.

  • Bán bà con xa mua láng giềng gần, điều đó đúng trong trường hợp người láng giềng có đủ nhân cách và mức độ tự tin để chúng ta làm được điều đó.