NGUYỄN KHẮC PHÊ
Mấy năm trước, trong dịp cùng lên thăm vườn An Hiên của bà Nguyễn Đình Chi, nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đã giới thiệu cho tôi biết cụ Sa Giang Đào Thái Hanh (thân phụ của bà Nguyễn Đình Chi, tức bà Đào Thị Xuân Yến) có tập thơ "Ái Châu danh thắng" (trong "Mộng Châu thi tập") được các danh nho đương thời đánh giá rất cao.
Cụ Đào Thái Hanh - Ảnh: wiki
“Đọc Mộng Châu thi tập lời lời châu ngọc..." (Đệ nhị giáp tiến sĩ Đào Nguyên Phổ). Tiếc là tập thơ bằng chữ Hán chưa được dịch xuất bản, nên còn ít người biết.
Cuối năm 1995, đúng 90 năm sau khi Đào Thái Hanh viết "Ái Châu danh thắng", tập thơ đã được Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành, với lời giới thiệu và bản dịch của giáo sư Phan Ngọc.
Đào Thái Hanh là một người giỏi chữ Hán và tinh thông Pháp ngữ, nhưng không theo nghiệp khoa cử. Dù vậy, trong 20 năm (từ 1894-1915), bằng sự uyên bác và thông minh, ông đã được thăng tiến từ một viên chức nhỏ lên đến tham tri Bộ Lại (tương đương Thứ trưởng) và cuối cùng là Tuần vũ (tỉnh trưởng) Quảng Trị. Ông bị bệnh và mất ở đây khi chỉ mới 45 tuổi.
Tác phẩm thơ văn ông để lại, ngoài "Mộng Châu thi tập", còn có nhiều bài viết bằng tiếng Pháp đăng trong những số đầu tiên của Tập san "Đô Thành Hiếu cổ" (B.A.V.H.), trong đó có 4 truyện kể lại sự tích các nữ thần Việt Nam. Ông viết các truyện này trong hai năm 1914-1915. Trước đó, năm 1913, khi đang giữ chức tham tri Bộ Lại, ông đã được các nhà nghiên cứu Huế mời làm sáng lập viên Hội Đô Thành Hiếu Cổ. Bốn truyện nữ thần Việt Nam (Sự tích Thiên Y A Na Thánh Mẫu - Thánh mẫu Liễu Hạnh - Sự tích Thánh mẫu Thái Dương Phu Nhơn - Sự tích Thánh mẫu Kỳ Thạch Phu Nhơn) qua bản dịch của Bửu Ý cũng đã được in trong tập sách kể trên. Đây là những truyện lịch sử, vừa có giá trị dân tộc học, vừa có giá trị văn học. Cũng có thể nói đây là những tác phẩm dân tộc học đầu tiên của giới nghiên cứu Việt Nam.
42 bài thơ trong tập "Ái Châu danh thắng" được Đào Thái Hanh viết trong lúc làm tri huyện Nga Sơn (Thanh Hóa), ông đã khăn gói ra đi khắp tỉnh Thanh, tìm hiểu lịch sử và các danh thắng trong vùng, mỗi nơi dừng bước ông đều có thơ. Như vậy, “Ái Châu danh thắng" gần như là những trang nhật ký. Giáo sư Phan Ngọc đã đặt vấn đề: Vì sao những trang nhật ký vịnh cảnh bình thường rất dễ tẻ nhạt này lại khiến các nhà nho lỗi lạc nhất thời đó thán phục? Và ông đã trả lời: Trước hết đó là sự đồng cảm với triết lý phương Đông. Khác với người phương Tây thường coi thiên nhiên là phương tiện, là mục đích để chiếm hữu, cải tạo; trong thơ Đào Thái Hanh, con người là một bộ phận hữu cơ của vũ trụ, tìm đến thiên nhiên là tìm về cội nguồn. "Do đó bài thơ nào cũng hòa quyện vào quá khứ. Quá khứ sống dậy với sức khêu gợi của nó. Cho nên “Ái Châu danh thắng" thực tế là lịch sử Ái Châu đượm sắc thái huyền thoại. Tôi, Sa Giang, có thể làm gì? Tôi nguyện góp phần giảm bớt những khổ đau của dân... Niềm vui của tôi? Một chén rượu, một sự hòa nhập với gió trăng, mây khói. Niềm an ủi đã không làm dân khổ. Có thế thôi. Tôi biết nói cùng ai? Tâm sự ấy, tâm sự Sa Giang, thế hệ sau cần phải hiểu... Tôi dịch thơ Sa Giang, vừa dịch vừa khóc... (Trích lời giới thiệu của Phan Ngọc)
Theo cách "giải mã" của giáo sư Phan Ngọc, mời bạn đọc cùng lần giở "Ái Châu danh thắng"... Sách in không nhiều, tiện đây, xin trích giới thiệu một bài:
XEM ĐỘNG BÍCH ĐÀO ĐỀ Ở VÁCH
Từ Thức đi rồi cảnh xót thay!
Hoa đào, nước chảy khác bao ngày
Mù chăng cửa động đường đi lại
Rêu phủ vách non thơ bấy nay
Thần tiên ẩn nấp đâu tìm thấy
Cây cỏ vô tình chẳng biết hay
Ca nhạc lâu đài đâu có nữa
Hang không ao vắng phủ bèo đầy!
Xin được nói thêm: Sa Giang Đào Thái Hanh đến Nga Sơn lúc 30 tuổi cùng lứa tuổi với quan tri huyện Nga Sơn cách đây vài trăm năm là Từ Thức. Từ Thức rời bỏ thế gian thành tiên, chẳng ai gặp được. Còn Sa Giang, dù có khi tự nhủ "Thẹn mình cốt tục...", hậu thế đã gặp được ông, chia sẻ tâm sự cùng ông qua tập sách này.
Huế, 8.3.1996
N.K.P
(TCSH86/04-1996)
Báo Tin Tức Chúa Nhựt, 3.11.1940 mở đầu bằng mấy hàng như sau: “Hai mươi chín tháng Chín Annam (20 Octobre 1940). Thêm một ngày đáng ghi nhớ. Một người đã mất: cụ Sào Nam Phan Bội Châu”
Với giọng văn sinh động, pha chút hài hước, hình minh họa ngộ nghĩnh, phù hợp với lứa tuổi học trò: “Chuyện kể về thầy trò thời xưa”, “Những tấm lòng cao cả” hay bộ văn học teen “Cười lên đi cô ơi”… sẽ đem đến cho độc giả nhiều cung bậc cảm xúc và hoài niệm.
Trong tất cả các Ni sư Phật giáo mà tôi được biết và chịu ơn hoằng pháp vô ngôn, có lẽ người gần gũi với tôi nhất trong đời là Cố Đại Trưởng lão Ni chúng – Sư Bà Cát Tường - nguyên trụ trì chùa sư nữ Hoàng Mai ở Thủy Xuân – Huế.
LTS: Nhà thơ, nhà văn Thanh Tịnh năm 78 tuổi sức khỏe không còn như buổi thanh niên, nhưng ngòi bút của ông vẫn còn cái sung sức của một người đã từng yêu du lịch và làm nghề hướng dẫn khách du lịch toàn Đông Dương. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc những trang hồi ký đầy lý thú của Thanh Tịnh.
NGUYỄN XUÂN HOA
Tôi không có dịp được học với thầy Phạm Kiêm Âu, người thầy nổi tiếng ở Huế, nhưng lại có cơ duyên cùng dạy ở trường nữ trung học Đồng Khánh với thầy trong các năm 1974 - 1975.
Vậy là nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh đã về cõi thiên thu giữa một sáng mùa thu Hà Nội lay phay gió mù u!...Trước khi chưa kịp được vuốt mắt, dường như đôi đồng tử của ông vẫn còn lưu giữ lại hình ảnh đau đáu về con sông Cụt quê nhà.
Với một tướng lãnh võ biền, thì mục tiêu cuộc dẹp loạn là đánh tan loạn quân, rồi ca khúc khải hoàn, ăn mừng chiến thắng.
PHÙNG TẤN ĐÔNG
“Đời của nó như thể bềnh bồng
Cái chết của nó như thể an nghỉ”
F.Jullien
(Dẫn nhập cuốn “Nuôi dưỡng đời mình - tách rời hạnh phúc” - Bửu Ý dịch, 2005)
THANH TÙNG
Hiệp định Genève ký kết, sông Bến Hải tưởng chỉ là giới tuyến tạm thời, không ngờ đã trở thành ranh giới chia cắt đất nước Việt Nam hơn 20 năm. Nỗi đau chia cắt và biết bao câu chuyện thương tâm, cảm động đã diễn ra ở đôi bờ Hiền Lương kể từ ngày ấy. Nhiều cuộc tình đẫm máu và nước mắt. Có những đôi vợ chồng chỉ ở với nhau đúng một đêm. Có người chồng Bắc vợ Nam, khi vợ được ra Bắc thì chồng lại đã vào Nam chiến đấu, đời vợ chồng như chuyện vợ chồng Ngâu.
“Thưởng thức là ngưỡng cửa của phê bình. Chưa bước qua ngưỡng cửa ấy mà nhảy vào cầm bút phê bình thì nhất định mắc phải những sai lầm tai hại. Không còn gì ngượng bằng đọc một bài người ta đem dẫn toàn những câu thơ dở và những câu ca dao dở mà lại đi khen là hay”. (Vũ Ngọc Phan, trích từ Hồi ký văn nghệ, tạp chí Văn Học, Hà Nội, số 4 năm 1983, trang 168).
VƯƠNG TRÍ NHÀN
I
Hè phố Hà Nội vốn khá hẹp, chỉ có điều may là ở cái thành phố đang còn lấy xe đạp làm phương tiện giao thông chủ yếu này, người đi bộ có phần ít, phía các phố không phải phố buôn bán, vỉa hè thường vắng, bởi vậy, nếu không quá bận, đi bộ lại là cái thú, người ta có thể vừa đi vừa nghỉ, thoải mái.
Gặp người thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm xưa, tôi có dịp biết thêm những tình tiết mới quanh câu chuyện hơn 30 năm về trước khi tiểu thuyết “Búp sen xanh” của nhà văn Sơn Tùng được tái bản lần đầu.
THẾ TƯỜNG
Ký
"Quê hương là chùm khế ngọt
cho con trèo hái cả ngày"
Một nhà báo Pháp sắp đến Việt Nam để tìm lại một di sản chiến tranh, nhưng ở một khía cạnh nhân văn của nó - đó là những con người, địa điểm từng xuất hiện trong các bức ảnh mà nữ phóng viên chiến trường nổi tiếng Catherine Leroy ghi lại trong cuộc tấn công Mậu Thân vào thành phố Huế.
Thanh Minh là bút danh chính của Nguyễn Hưu(1), người làng Yên Tập, tổng Phù Lưu, huyện Can Lộc, nay là xã Tân Lộc, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
LTS: Nhà văn Lan Khai tên thật là Nguyễn Đình Khải, sinh năm Bính Ngọ 1906 ở Tuyên Quang, song lại có gốc gác dòng họ Nguyễn ở Huế. Ông nổi tiếng trên văn đàn Việt Nam từ những năm 1930 - 1945, được mệnh danh là “nhà văn đường rừng”, để lại hàng trăm tác phẩm văn học, trong đó có gần 50 cuốn tiểu thuyết.
Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.
Tháng Bảy âm. Tháng cô hồn. Mồng một âm đã rả rích mưa báo hiệu cho một tháng âm u của Tiết Ngâu. Sắp rằm, tâm trí chợt như hửng ấm khi tiếp được cái giấy Hà Nội mời dự lễ khánh thành nhà bia và Khu tưởng niệm đồng bào ta bị chết đói năm 1945. Chợt nhớ, công việc này đã manh nha từ hơn mười năm trước…
LTS: Nguyễn Hưu, bút danh Thanh Minh, sinh năm 1914, quê huyện Can Lộc, hoạt động báo chí và văn học từ những năm 1934 - 1935. Ông là nhà báo, nhà thơ, dịch giả Hán - Nôm, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nhà quản lý văn hóa văn nghệ có nhiều thành tựu và cống hiến. Ông là Hội trưởng Hội văn nghệ Hà Tĩnh đầu tiên. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông [21.8], VHNA sẽ lần lượt đăng một số bài viết về ông.
Vùng quê nghèo chúng tôi nằm sát chân núi Hồng Lĩnh có Hàm Anh (nay là xóm 1 xã Tân Lộc) từng sản sinh ra một Tiến sĩ xuất thân Đệ nhị giáp (Hoàng giáp) (1499) đời Lê Hiến tông tên là Phan Đình Tá (1468-?)