Kỷ niệm Kiev với Trần Đình Sử

09:30 25/09/2020

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG  

Đầu tháng 5 năm 1989, từ Moskva, nhà văn Vương Trí Nhàn rủ tôi đi thăm nhà giáo Trần Đình Sử(*) đang làm thực tập sinh cao cấp ở thủ đô Kiev của nước Cộng hòa Ucraina.

Từ trái qua phải: Vương Trí Nhàn, Trần Đình Sử, Huỳnh Như Phương trước nhà bảo tàng M. Bulgakov ở Kiev (1989).

Tôi mừng quá, vì ở nước Nga đã hơn ba năm mà tôi chỉ mới một lần ra khỏi Moskva đi Leningrad. Những năm tháng đó, quy định nghiêm ngặt, người nước ngoài muốn đi từ thủ đô Moskva đến thành phố khác phải có visa, nếu không có mà gặp kiểm tra, thì sẽ bị phạt tiền, thậm chí bị áp giải về nơi xuất phát. Nhiều người Việt Nam đánh liều, cứ đi khắp Liên bang Xô viết cũng chẳng sao; còn chúng tôi thì nhát gan, không dám phiêu lưu. Ông Nhàn và tôi phải đến cơ quan công an đợi một buổi sáng mới có visa cho phép.

Hai năm trước đó, tôi được ông Trần Đăng Suyền mời đến phòng gặp gỡ và dùng cơm với ông Trần Đình Sử lần đầu khi ông lên Moskva liên hệ công tác. Còn tên tuổi ông thì giới trẻ làm nghiên cứu văn học chúng tôi biết đến từ lâu, đặc biệt là sau khi ông bảo vệ luận án trở về và xuất hiện thật ấn tượng với hai bài viết về thi pháp Truyện Kiều trên tạp chí Văn học. Hồi đó trong đồng nghiệp hay có câu nói vui: “Ân - sử thi, Sử - thi pháp”. Ân là Lại Nguyên Ân, viết nhiều và sâu sắc về tiểu thuyết sử thi, văn học sử thi. Sử là Trần Đình Sử, người có công lớn trong việc đưa thi pháp học Nga vào khoa nghiên cứu văn học ở Việt Nam lúc đó còn bị ảnh hưởng nhiều bởi cách tiếp cận xã hội - lịch sử. Thời gian đầu khi sang Moskva học tập, tôi đã vào thư viện quốc gia đọc luận án của các bậc đàn anh để rút kinh nghiệm, trong đó có luận án của Trần Đình Sử: Thời gian như là nhân tố cấu thành của tác phẩm văn học (Trên tư liệu văn xuôi Xô viết về Lênin). Thì ra, ngay từ rất sớm, Trần Đình Sử đã tìm cách vận dụng thi pháp học Nga vào phân tích cấu trúc tác phẩm văn học, đặt những nền tảng bước đầu cho những công trình dài hơi của ông sau này như Thi pháp thơ Tố Hữu, Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Thi pháp Truyện Kiều.

Chuyến đi đó thật vui. Kiev là một thành phố cổ kính, có truyền thống văn hóa lâu đời với nhiều di tích lịch sử nổi tiếng, nằm bên bờ sông Dnepr, thuộc địa bàn Đông Âu. Tàu hỏa đi về Kiev thời gian lâu hơn đi Leningrad, gần như theo hai hướng ngược nhau. Trần Đình Sử được Trường Đại học Tổng hợp dành cho một căn phòng khá rộng rãi trong ký túc xá. Ông đi mượn hai chiếc giường xếp cho ông Nhàn và tôi, chuẩn bị thức ăn để cùng nấu ăn trong ba ngày chúng tôi ở đó. Ông dành hết thời gian cả ba ngày để đưa chúng tôi đi thăm các thắng cảnh của Kiev, thăm nhà bảo tàng các danh nhân, uống cà phê, mua sách, chụp ảnh. Mùa hè thành phố cây lá xanh tươi, hoa nở khắp chốn, đứng trên đồi cao nhìn xuống dòng sông Dnepr lững lờ trôi, thấy đời sống thật thanh bình, dù mới ba năm trước nơi đây từng bị ảnh hưởng bởi một thảm họa môi trường nghiêm trọng là vụ nổ nhà máy điện nguyên tử Tchernobyl cách Kiev khoảng 110 km về phía bắc. Với những con đường dốc, những vỉa hè lát đá, những ngôi nhà cổ theo kiến trúc châu Âu, Kiev làm tôi nhớ Đà Lạt, tuy thành phố này hoành tráng hơn Đà Lạt rất nhiều.

Đời sống ở Kiev bình lặng chứ không chộn rộn như Moskva, tuy hơi buồn nhưng lại dễ tập trung cho chuyên môn. Tôi hiểu vì sao ông Sử thích trở lại nơi này và đã làm được nhiều việc như vậy trong thời gian ở đây. Nhưng hồi đó trông ông không được khỏe. Hình như bệnh suyễn làm ông dị ứng với mùi phấn hoa loang khắp các ngả đường thành phố. Có hôm ba chúng tôi đang nói chuyện văn chương rôm rả khi đi bộ qua một công viên, thì ông Nhàn và tôi chợt quay lại thấy ông Sử lạc đâu mất. Hoảng hồn, chúng tôi đi ngược trở lại mới thấy ông Sử ngồi một mình trên chiếc ghế đá bên đường vì khó thở, mệt đến nỗi không kêu được bạn đồng hành dừng lại chờ.

Nghĩ cũng lạ, chỉ vài năm sau là Liên Xô tan rã, Ucraina không còn phụ thuộc Moskva, trở thành thành viên của Cộng đồng các quốc gia độc lập, rồi thành nước có chủ quyền, vậy mà lúc đó chúng tôi không hề nhận ra một dấu hiệu gì báo trước. Chúng tôi vẫn nghĩ là công cuộc cải tổ sẽ giúp Liên Xô trụ vững. Theo dõi và nắm bắt những chuyển biến đầy nhạy cảm của trí thức Xô-viết nhưng không ai trong chúng tôi hình dung được những biến cố chính trị sẽ diễn ra vào cuối năm 1989 và những tháng sau đó. Lịch sử quả đã đi những bước không ngờ, bước đầu rón rén nhưng đến lúc thì đột biến.

Trong những câu chuyện kéo dài mấy đêm ở Kiev, chúng tôi chỉ bàn bạc xoay quanh văn chương chữ nghĩa mà không đụng gì đến thời cuộc, dù ai cũng hiểu rằng cái nghề của chúng tôi không thể nào tách rời khỏi thời cuộc. Chỉ một thời gian sau chuyến đi ngắn ngủi đến Kiev đó, ông Nhàn, ông Sử và tôi lần lượt giã từ Liên bang Xô-viết, trong những ngày sân bay Tsheremechievo rối loạn, trước khi thể chế hùng mạnh này sụp đổ.

Theo dõi tin tức về những thay đổi ở Ucraina gần đây, tôi thầm biết ơn hai ông Trần Đình Sử và Vương Trí Nhàn đã cho mình cơ duyên có chuyến đi quý giá đó trong đời, không dễ gì có được lần thứ hai. Và tôi vẫn luôn ngẫm nghĩ về những câu chuyện nghề nghiệp với hai nhà văn đàn anh trong lần gặp gỡ đó.

Lịch sử giao lưu văn hóa Xô - Việt đã tạo điều kiện cho mấy thế hệ người Việt mở cửa nhìn ra bên ngoài, dù chỉ là một phần thế giới. So với hoàn cảnh cấm vận thời hậu chiến ở nước mình, dù sao Liên Xô nói chung, nước Nga nói riêng vẫn có một số cái khác và cái mới. Tuy ở xứ sở này nhiều phương diện về xã hội và mức sống còn thua sút phương Tây, nhưng căn cốt văn hóa của họ, được xây nền đắp móng từ những thế kỷ trước, làm nên bản sắc và bề dày mà thế giới phải nể trọng. Không chỉ A. Pushkin, T. Shevchenko, L. Tolstoi, F. Dostoievsky... ở thế kỷ 19, I. Bunin, M. Bulgakov, B. Pasternak, A. Solzhenitsyn... ở thế kỷ 20 trên bình diện sáng tác; mà cả trường phái Hình thức Nga, A. Veselovsky, M. Bakhtin, Yu. Lotman... trên lĩnh vực lý luận - phê bình đã được dịch thuật, giới thiệu, nghiên cứu rộng rãi và sâu sắc trong học giới nước ngoài, có khi còn sớm sủa hơn trên chính quê hương của các tên tuổi ấy. Qua Pháp tôi thấy sách lý thuyết văn học nào cũng trình bày cặn kẽ về quan niệm mỹ học của trường phái Hình thức Nga và Bakhtin; không có hai di sản đỉnh cao này thì không có chủ nghĩa cấu trúc Pháp, Claude Lévi-Strauss, Tzvetan Todorov và Julia Kristeva. Có lần, ngay giữa Tp. Hồ Chí Minh, tôi đưa ông Trần Đình Sử tìm mua được bộ Toàn tập Bakhtin bằng tiếng Trung trong một hiệu sách ngoại văn trên Chợ Lớn.

Có thể nói sự đổi mới văn học ở Liên Xô không chỉ góp phần đem lại làn gió mới cho khoa nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam; mà còn chuẩn bị tâm thế cho thế hệ học giả trẻ kế tục tiếp thu thuận lợi hơn những thành tựu và kinh nghiệm của học giới phương Tây, khi đất nước đã mở rộng cánh cửa hội nhập với thế giới. Sự kết hợp hài hòa của hai nguồn ảnh hưởng này được nâng cao là đặc điểm của sự phát triển khoa học nhân văn Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ 21.

Nhìn lại tấm ảnh chụp ba người chúng tôi trước nhà bảo tàng M. Bulgakov ở Kiev (in trong Tuyển tập Trần Đình Sử, tập 2, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 2005, tr. 237), mới đó mà hơn 30 năm đã trôi qua. Sau chuyến đi đó, tôi có nhiều dịp cộng tác và gặp gỡ với giáo sư Trần Đình Sử, lúc ở Hà Nội, lúc ở Tp. Hồ Chí Minh. Qua những công trình mới của ông, những cuộc hội thảo khoa học, những đề tài nghiên cứu tập thể, tôi luôn học hỏi ở ông tinh thần lao động không mệt mỏi, kiên trì hướng đến những khám phá khoa học vừa đề cao tính nghệ thuật và đặc trưng thẩm mỹ, vừa tôn trọng chức năng xã hội và giá trị nhân văn của văn học; kết hợp tiếp thu tinh hoa văn học thế giới với nỗ lực phát huy phẩm chất văn hóa của dân tộc mình.

H.N.P
(TCSH378/08-2020)

........................................
(*)Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo nhân dân Trần Đình Sử sinh ngày 10/8/1940 tại thành phố Huế, nguyên quán thôn  Phú Lễ, xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ. Tác phẩm chính: Thi pháp thơ Tố Hữu, Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Những thế giới nghệ thuật thơ, Lý luận và phê bình văn học, Dẫn luận thi pháp học văn học, Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Đọc văn - học văn, Văn học và thời gian, Thi pháp Truyện Kiều, Tuyển tập Trần Đình Sử (2 tập), Một nền lý luận văn học hiện đại (nhìn qua thực tiễn Trung Quốc), Trên đường biên của lý luận văn học, Giáo trình lý luận văn học (chủ biên, 2 tập), Tự sự học - lý thuyết và ứng dụng (chủ biên).  




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • THUẬN AN

    (Đọc cuốn ký sự đường xa “18 tuổi và chuyến phượt solo đầu đời trên đất Mỹ” của Phạm Nguyễn Linh Đan, Nxb. Hội Nhà văn 2018).

  • (Để tưởng niệm thi sĩ Mary Oliver, vừa mất ngày 17 tháng 1, 2019, tại Florida, 83 tuổi)  

    ĐỨC TÙNG

  • CHU HUY SƠN

    Khó có thể kể hết những nhà thơ Việt Nam và thế giới bắt gặp cảm hứng từ cuộc đời cao đẹp và vô cùng trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để sáng tác nên những tác phẩm về Người. Song, tôi cho rằng, bài thơ “Hồ Chí Minh - tên Người là cả một niềm thơ” của nhà thơ Cuba là một trong những sáng tác hay nhất viết về Bác.

  • Sinh năm 1947 tại Rio de Janeiro, Brazil, 40 tuổi mới viết và xuất bản cuốn sách đầu tiên, Paulo Coelho được xem là nhà văn (còn sống) được đọc nhiều nhất thế giới: tuy số lượng tác phẩm đến nay chỉ trên 20 cuốn, nhưng đã phát hành đến 86 triệu bản tại 150 quốc gia, trong đó có nhiều cuốn luôn ở trong danh sách best- seller (số liệu tính đến tháng 6/ 2015). Ngày 22/12/2016, trong danh sách 200 tác giả có ảnh hưởng lớn nhất thế giới do công ty Richtopia đề xướng, Paulo Coelho được kể tên ở vị trí thứ 2.

  • WILLIAM D. ADAMS    

    LGT: William D. Adams hiện là học giả cao cấp tại quỹ hỗ trợ nhân văn và khoa học nghệ thuật lừng danh Andrew W. Mellon của Hoa Kỳ. Từ 2014 - 2017, ông được Tổng thống Obama (lúc đương nhiệm) bổ nhiệm giữ chức vụ chủ tịch Tổ chức Quốc gia về Nhân văn (NEH) - cơ quan độc lập của chính phủ tài trợ các dự án văn hóa, nghệ thuật, và giáo dục.

  • PABLO NERUDA    

    LGT: Pablo Neruda, nhà thơ Mỹ Latinh nổi tiếng thế giới, sinh năm 1904 tại Parral, Chile. Năm 1920 ông đến Santiago để học tập và công bố bài thơ đầu tiên “La canción de la fiesta” (1921), rồi được biết đến rộng rãi qua tập thơ “Crepusculario” (1923).

  • PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO  

    Tôi xin được dùng tên một bài thơ viết tại Paris của mình làm tựa đề cho bài viết này. Đó là những cảm xúc thăng hoa, những phút giây hạnh phúc và cũng là những kỷ niệm khó quên cùng bạn thơ của 24 quốc gia tham dự cuộc thi Slam thơ Quốc tế 2018 tại Paris tháng 5/2018 vừa qua.

  • PHẠM HỮU THU  

    Nhân loại kính nể không chỉ vì đất nước Nhật Bản bình tĩnh ứng phó thiên tai mà còn gây thiện cảm qua hành vi ứng xử của họ. 

  • NGUYỄN THANH VIỆT  

    Nguyễn Thanh Việt là nhà văn gốc Việt đoạt giải văn chương Pulitzer, tác giả của “The Sympathizer,” “The Refugees,” và “Nothing Ever Dies: Vietnam and the Memory of War.” Ông hiện là giáo sư Anh văn tại Đại học Nam California (Mỹ).

  • (T. Segers đặt câu hỏi, Hans Robert Jauss trả lời, Timothy Bahti dịch [sang tiếng Anh], Tạp chí New Literary History, Vol. 11, No. 1, Johns Hopkins University Press, 1979).

  • HENRY SLESAR

    Nhà văn nổi tiếng Henry Slesar (1927 - 2002) viết tiểu thuyết, kịch bản, trinh thám, khoa học viễn tưởng đặc sắc về thủ pháp hài hước, kết cục trái chiều. 

  • PHẠM ĐĂNG  

    Thế giới vừa vĩnh biệt một thiên tài: Stephen William Hawking.
    Ngày sinh của Hawking (8 tháng 1 năm 1942) đúng 300 năm sau ngày mất của Galileo Galilei (8 tháng 1 năm 1642). Ông qua đời (14/3/2018) vào ngày số Pi, cũng là ngày sinh của Albert Einstein (14 tháng 3 năm 1879).

  • Robert Arthur, Jr. sinh năm 1909, tại Philippines, nơi cha của ông, sĩ quan quân lực Hoa Kỳ, đóng quân. Tuổi thơ của ông cũng theo chân cha nay đây mai đó, có điều là ông không nối nghiệp cha (dù đã được nhận vào trường West Point), mà chọn học ngành văn chương.

  • HENRY JAMES   

    Henry James: Nhà văn Mỹ (1843 NewYork - 1916 Luân Đôn), viết tiểu thuyết, truyện ngắn, phê bình văn học; đặc biệt yêu văn học, nghệ thuật Pháp. Tác phẩm: 112 truyện ngắn (1864 - 1910), Toàn tập (1990 - 2009). Chủ đề: Ý thức, tâm lý; mơ mộng, tình cảm; vẻ đẹp, chân lý nghệ thuật.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Trước khi biết lòng tử tế là gì
    Bạn phải mất đi nhiều thứ

  • NGUYỄN DƯ

    Đọc Thơ Đường bất ngờ thấy bài Lương Châu từ của Vương Hàn (687 - 726):
    Bồ đào mĩ tửu dạ quang bôi
    Dục ẩm tì bà mã thượng thôi.
    Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
    Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi.

  • PHẠM TRƯỜNG THI  

    Tôi và nhà văn Hà Phạm Phú nhận lời mời của Hội Nhà văn Việt Nam đi dự Hội thảo văn học quốc tế Trung Quốc và các nước lưu vực sông Mê Kông gồm: Myanmar, Lào, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam được tổ chức từ ngày 21 đến 25 tháng 5 năm 2017 tại thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, khu tự trị dân tộc Choang Trung Quốc.

  • W.S. PEIRIS

    W.S.Peiris sinh 1932; đạt giải nhì truyện ngắn tiếng Anh trong cuộc thi Văn học quốc gia Tích Lan năm 2008. Hiện ông sống tại Kiribathgoda, Sri Lanka.

  • PHẠM TẤN XUÂN CAO

    Chủ nghĩa hiện đại khởi đi với các đại tự sự và niềm tin vô điều kiện của nó vào Lý tính đồng thời chủ nghĩa hậu hiện đại nổi lên để phản ứng lại sức hướng động tuyến tính như thế của chủ nghĩa hiện đại, khi mà nó luôn muốn cổ xúy cho một sự bất tín về phía các đại tự sự và tiến hành giải kiến tạo chúng.