Kurchatov- nhà vật lý Xô Viết vĩ đại.

10:58 04/11/2008
TRẦN LỘC HÙNG“NỒI HƠI NGUYÊN TỬ” NGĂN NGỪA THẾ CHIẾN THỨ BAChuyện kể rằng sau cuộc thử nghiệm thành công của trái bom nguyên tử đầu tiên vào năm 1949, cha đẻ của nó - Igor Vaxilevich Kurchatov - đã khóc nức nở.

Đó không chỉ là những giọt nước mắt sung sướng, mà còn là hệ quả của một thời gian dài khó khăn và gian khổ để tìm ra lá chắn hạt nhân cho Tổ quốc Xô viết. Tháng Tám năm 1949 trái bom nguyên tử đầu tiên  của Liên bang xô viết đã được thử thành công. Thế là “Nồi hơi nguyên tử” - bí danh của Igor Kurchatov - đã góp phần đẩy lùi nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới thứ ba.

IGOR KURCHATOV (1903-1960)
Igor Vasilyevich Kurchatov sinh ngày 7 tháng Giêng năm 1903, tại Simsky (vùng Chelyabinsk , phía nam Ural, nước Nga). Chàng thanh niên Kurchatov tốt nghiệp đại học ngành Vật lý tại trường Tổng hợp Quốc gia Crime năm 1923 và vào học ngành đóng tàu tại Trường Đại học Bách khoa Petrograd. Năm 1925 Kurchatov chuyển tới Viện Kỹ thuật Vật lý và dưới sự hướng dẫn của Nhà vật lý nổi tiếng Abram Fedorovich Ioffe, ông bắt đầu nghiên cứu các vấn đề khác nhau liên  quan tới tính phóng xạ. Năm 1932, Kurchatov nhận được sự tài trợ của chính phủ để thành lập một nhóm riêng của ông chuyên nghiên cứu phản ứng hạt nhân và xây dựng máy gia tốc đầu tiên của Liên bang Xô viết. Ông đã  tìm ra sự phân rã hạt nhân ural năm 1940.

Chương trình nghiên cứu sự phân rã hạt nhân của Kurchatov bị gián đoạn bởi chiến tranh thế giới thứ II, và vì vậy Kurchatov đã gia nhập nhóm thiết kế   các tầu bảo vệ chống các loại mìn từ tính của phát xít Đức. Năm 1943, dưới sự giới thiệu của Ioffe, Kurchatov được chỉ định làm giám đốc chương trình vũ khí nguyên tử Xô viết. Dự án này do chính Stalin đề xuất. Hai trái bom nguyên tử của Mỹ thả xuống HiroshimaNagasaki của Nhật bản đã buộc Stalin phải hành động cương quyết hơn. Stalin đã ra lệnh cho Kurchatov phải sản xuất được một trái bom nguyên tử vào năm 1948 và buộc Lavrenty Beria (Bộ trưởng Bộ Nội vụ Liên xô) trực tiếp lãnh đạo dự án. Vào ngày 29 tháng Tám năm 1949 trái bom nguyên tử đầu tiên của Liên bang Xô viết đã được thử thành công tại bãi thử Semipalatinsk thuộc Cộng hòa Liên bang  Nga.

Kurchatov được bầu là Viện sỹ Viện hàn lâm Khoa học Liên xô  từ năm 1943 và  ba lần được phong danh hiệu Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa trong các năm 1949,1951 và 1954.  Ông là người lãnh đạo việc  xây dựng thành công lò phản ứng hạt nhân đầu tiên ở châu Âu 1946, chế tạo thành công bom nguyên tử ở Liên bang xô viết năm 1949 và  bom nhiệt hạch đầu tiên trên thế giới vào năm 1953. Kurchatov cũng là người sáng lập và là giám đốc đầu tiên của Viện Năng lượng nguyên tử Liên xô  từ năm 1943. Sau cái chết của Kurchatov, năm 1960 Viện Năng lượng nguyên tử Liên xô đổi tên thành Viện Kurchatov. Do có những công lao to lớn đối với Tổ quốc Xô viết, Kurchatov đã được nhận giải thưởng Lê nin năm 1957 và  giải thưởng Liên bang Xô viết trong các năm 1942, 1949, 1951 và 1954.

PHÒNG THÍ NGHIÊM SỐ 2.
Dự án hạt nhân của Nhà nước Xô viết bắt đầu khởi động một cách tuyệt mật vào năm 1943. Bản thân Viện Nghiên cứu hạt nhân đã đổi tên thành  Phòng thí nghiệm số 2 của Viện Hàn lâm Khoa học Liên xô. Sự bí mật bao trùm khắp nơi trong lãnh thổ của Viện. Các cộng tác viên của một số bộ phận không được biết đồng nghiệp của họ đang làm gì sau các bức tường. Thậm chí có nhiều người làm việc nhiều năm trong Viện nhưng không hề biết trên lãnh thổ của Viện đã có lò phản ứng nguyên tử họat động. Mọi giấy tờ ghi chép được đánh số và kiểm tra bởi Phòng thứ nhất (bộ phận bảo vệ nội bộ). Để nhận một tờ giấy, mọi người cần phải tới đó, ký nhận và sau khi tờ giấy đã sử dụng, nhất thiết phải nộp trả lại. Rõ ràng là tuân thủ chế độ nghiêm ngặt đó không phải dễ dàng, đặc biệt đối với các nhà bác học. Vì vậy, Kurchatov thỉnh thoảng vừa rít thuốc lá vừa nheo mắt nói với mọi người: “trong phòng có mùi không tuân thủ nội quy”.

LÃNH CHÚA IGOR
Do khả năng làm việc kỳ lạ của Kurchatov mà người  ta  thường gọi ông là “Nồi hơi nguyên tử”, “Người - xe tăng” hoặc “Quả bom”. Tuy nhiên, mọi người trong Viện thích gọi ông là “Ông rậm râu”. Rất mạnh mẽ, thông minh sắc sảo, say mê tranh luận và rất  nghịch ngợm là những nét không thể tách rời trong các đặc điểm của ông. Hồi  đó, để đảm bảo an toàn trong công việc, tất cả các nhân viên trong Viện đều đi ủng cao su bọc bên ngoài giầy da. Để tránh nhầm lẫn, mọi người thường đặt các mẫu giấy có ghi tên từng người vào các chiếc ủng cao su. Có một lần, “Ông rậm râu” đã thay đổi mẩu giấy ở ủng của hai vị lãnh đạo cao nhất của Viện và cười ngặt ngẽo khi thấy cả hai vị lãnh đạo đã không thể xỏ chân vào đôi ủng của mình.

Gần Kurchatov mọi người đều cảm nhận thấy  ông đang làm một việc gì đó cực kỳ quan trọng và cấp thiết. Và thực chất Kurchatov đã phải thực hiện nhiệm vụ nhanh chóng tạo ra lá chắn hạt nhân cho đất nước Liên xô và góp phần chia toàn bộ lịch sử thế kỷ 20 ra hai phần - thời đại các cuộc chiến tranh thế giới và sự vắng mặt của chúng. Sự  quan trọng và khó khăn của nhiệm vụ mà ông phải thực hiện đã buộc Kurchatov làm việc như cật lực cả ngày lẫn  đêm. Sự hào hứng của ông ta cũng lây lan sang những người xung quanh. “Chào - có gì tiến bộ không?” Kurchatov thường chào hỏi các công tác viên của mình như vậy mỗi buổi sáng tại nơi làm việc, sau đó ông lại tập trung cao độ vào các  phương trình và công thức mà chắc chỉ có mình ông hiểu. Mọi cộng sự của ông  không thể hiểu được khi nào thì Kurchatov có thể ngủ. Thường thì các cuộc họp của Hội đồng khoa học Viện do ông đề nghị có thể khai mạc lúc 3 giờ sáng, nhưng sau đó ngay từ sáng sớm mọi người đã thấy Kurchatov ngồi bên bàn làm việc.

Sau lần đau đầu tiên do nồi máu cơ tim, Kurchatov buộc phải di chuyển khó nhọc với cây gậy gỗ. Nhân viên y tế đã đưa ông tới nhà nghỉ ở Barbukhe để ông có thể nghỉ ngơi ở đó, nhưng Kurchatov đã nhanh chóng trở lại với công việc. Cơn đau thứ hai nhanh chóng xuất hiện lại quật ngã Kurchatov. Khi đó Bộ chính trị Đảng Cộng sản Liên xô quyết định: không có sự cho phép ở cấp cao nhất thì Kurchatov không được tới nơi làm việc.
Tất nhiên “Ông rậm râu” rất buồn khi bị cách ly với công việc mà ông yêu mến, tuy nhiên thỉnh thoảng ông vẫn trốn được sự quản lý của bác sỹ, và quay về Viện để tiếp tục công việc. Tất cả mọi người trong Viện đều yêu mến và tôn trọng ông. Phụ nữ trong Viện gọi ông một cách kính trọng là Lãnh chúa Igor bởi vì ông cao lớn, rậm râu, giống hệt những tráng sĩ trong các câu truyện cổ tích NGA. Ông đã ba lần được phong Anh hùng Lao động. Ông thường đùa một cách buồn bã là  không có danh hiệu nào có thể chữa khỏi bệnh cho ông được.

Bốn ngày trước khi chết,  Kurchatov đã đi nghe hòa nhạc với tâm trạng rất vui vẻ. Ông mất ngày 7 tháng 2 năm 1960 ở tuổi 57 tại Mat-xcơ-va. Hôm đó, ông tới gặp một người bạn trong Viện để trao đổi công việc. Ông đang ngồi trên ghế nói chuyện vui vẻ, tự nhiên gục  đầu và im lặng. Trái tim của nhà Vật lý Xô viết vĩ đại đã ngừng đập.
Trong suốt những ngày vĩnh biệt Kurchatov, từ gian phòng lớn của Nhà Công đoàn Mat-xcơ-va luôn vang lên bản nhạc mà ông thường yêu thích.
Sau khi mất, thi hài của Kurchatov được quàn tại tường thành Điện Kremli như các tướng lĩnh và các nhà chính trị nổi tiếng của Liên bang Xô viết.
                                                T.L.H

(nguồn: TCSH số 216 - 02 - 2007)

 



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÝ HOÀI THU

    Thôn ca (1944) của Đoàn Văn Cừ là bức tranh thơ sống động về con người và cảnh vật của không gian văn hóa Sơn Nam - Bắc Bộ.

  • NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG

    Độc giả trẻ thời nay không ít người sẽ hết sức ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng Truyện Kiều, thiên tiểu thuyết bằng thơ dài tới 3.254 câu với cả thảy 22.778 lượt dùng từ, nhưng lại chẳng hề có qua một chữ NẾU nào, tuy rằng nghĩa “ĐIỀU KIỆN” và/hay “GIẢ ĐỊNH”, vốn được diễn đạt bằng NẾU (hoặc các biểu thức ngôn từ tương đương) trong tiếng Việt đương đại là một trong những nghĩa phổ quát (tức mọi thứ tiếng đều có) và ít thấy một thứ tiếng nào lại vắng các phương tiện riêng để biểu thị.

  • ĐINH VĂN TUẤN

    Trong số mấy bài thơ chữ Nôm còn lại của Bà Huyện Thanh Quan, bài thơ “Qua Đèo Ngang” là bài thơ gần đây được tranh luận nhiều nhất về chữ nghĩa, đặc biệt là về từ ngữ “cái gia gia”(1).

  • KHẾ IÊM

    Tựa đề về cái chết của hậu hiện đại không có gì mới vì đã có khá nhiều bài viết bàn về vấn đề này, từ những đầu thập niên 1990. Nhưng bài viết đã phác họa cho chúng ta thấy đời sống văn hóa trong thời đại sau chủ nghĩa hậu hiện đại với sự xuất hiện những phương tiện công nghệ mới. Lạc quan hay bi quan, chúng ta chưa biết, nhưng rõ ràng những hệ tư tưởng cũ đang dần dần bị tàn phai nơi những thế hệ mới.

  • ALAN KIRBY

    LTS: Alan Kirby nói chủ nghĩa hậu hiện đại đã chết và đã được chôn. Tới thế chỗ của nó là một hệ hình mới của thẩm quyền và kiến thức được hình thành dưới áp lực của những công nghệ mới và các lực lượng xã hội đương đại. Tựa đề bài tiểu luận, lần đầu tiên xuất hiện trên tạp chí Philosophy Now (Triết học Bây giờ) ở Anh, số 58, năm 2006, và sau đó được in trong cuốn “Digimodernism: How New Technologies Dismantle the Postmodern and Reconfigure Our Culture”, được Continuum xuất bản vào năm 2009.

  • LÊ QUỐC HIẾU

    Trong các bộ phận của khoa nghiên cứu văn học Việt Nam hiện nay, không thể phủ nhận lý luận, phê bình là lĩnh vực có nhiều thay đổi rõ rệt. Một loạt những công trình nghiên cứu lịch sử lí luận, phê bình văn học “trình làng” trong những năm qua[1], đủ để nhận thấy tham vọng khái quát, đánh giá của các nhà nghiên cứu sau mỗi chặng đường phát triển của văn học.

  • THÁI KIM LAN
    I.
    Bài viết này được mở đầu bằng một trải nghiệm tự thân, từ chỗ đứng của chủ thể thực hành nói ra kinh nghiệm của mình, vì thế có thể gây ấn tượng về tính chủ quan. Sự trách cứ ấy xin nhận lãnh trước, nhưng xin được tạm thời để trong dấu ngoặc.

  • LUÂN NGUYỄN

    Nhất đình sơn vũ luyện hoa khai
                 (Mộ xuân tức sự - Nguyễn Trãi)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    (Trích tham luận tại Hội thảo "Văn học trước yêu cầu đổi mới" tháng 12-1987)

  • BỬU CHỈ

    Đã từ lâu tôi vẫn nghĩ và tin rằng: quê hương của nghệ thuật là Tự Do, và nghệ thuật đích thực phải thoát thai từ những con người sáng tạo có đầy đủ quyền làm người, cùng tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội của họ; và lớn hơn nữa là đối với con người.

  • LÊ QUANG THÁI

    Năm Quý Tỵ đã trôi qua, Xuân Giáp Ngọ đã về:
    Rắn trườn đã hết năm,/ Ngựa hay đưa Xuân về.(1)

  • ĐỖ LAI THÚY

    Kìa ai chín suối xương không nát
    Ắt hẳn nghìn thu tiếng vẫn còn
                   
    (Nguyễn Khuyến)

  • TRẦN HUYỀN TRÂN

    Có lẽ, Cám dỗ cuối cùng của Chúa là cuốn tiểu thuyết nói về khoái lạc trần tục của Jesus một cách táo bạo nhất?

  • NGUYỄN DƯ

    Hôm ấy bạn bè họp mặt ăn uống. Chuyện nổ như bắp rang. Tôi khoe mình đã từng ba lần đội trời đạp đất trên đỉnh đèo Hải Vân. Một bạn hỏi đèo Hải Vân có gì đặc biệt? Câu hỏi bất ngờ làm tôi cụt hứng. Ừ nhỉ… đèo Hải Vân có gì đặc biệt?

  • PHAN TUẤN ANH

    “Lịch sử như là đem lại ý nghĩa cho cái vô nghĩa”
                                                               (T.Lessing)

  • Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY

    Sau khi đọc bài trao đổi của Triệu Sơn trên tạp chí Sông Hương số 10/2013 về bài viết của tôi trên tạp chí Sông Hương số 8/2013, tôi xin có mấy ý trả lời như sau:

  • PHAN NGỌC

    Trong quyển "Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều", tôi có dùng một số thuật ngữ chuyên môn. Trong phạm vi quyển sách tôi không thể trình bày kỹ cách hiểu của mình, cho nên có sự hiểu lầm. Giờ tôi xin trình bày kỹ hơn khái niệm "thức nhận", cơ sở của tác phẩm, để bạn đọc dễ đánh giá hơn.

  • YẾN THANH

    Trong bài viết này, chúng tôi muốn nhìn nhận những cống hiến của GS.TS Lê Huy Bắc trên lĩnh vực khoa học, đây là những thành tựu mà theo chúng tôi, vừa có tính lan tỏa, lại vừa có tính bền vững. Bởi vì, có thể nhiều học viên, nhà nghiên cứu dù không trực tiếp được nhà khoa học giảng dạy, hướng dẫn, nhưng từ những công trình, bài báo khoa học, vẫn được kế thừa và chịu sự tác động từ người thầy đó.