Đa số giao hưởng của Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791) được viết ở giọng trưởng, chỉ có hai bản giao hưởng số 25 và số 40 đều được viết ở giọng thứ (Sol thứ).
Nhà soạn nhạc thiên tài Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791)
Trước kia, trong giới âm nhạc học đã có giả thuyết rằng Mozart chưa từng được nghe trình diễn Symphony No. 40 cũng như bộ ba kiệt tác giao hưởng cuối cùng lúc sinh thời. Nhưng điều này đã bị các nhà âm nhạc học hiện đại bác bỏ. Bằng chứng họ đưa ra là một bức thư mới được phát hiện gần đây. Bức thư do nhạc sĩ Johann Wenzel (1762-1831) viết ngày 10/7/1802 gửi nhà xuất bản Ambrosius Kühnel tại Leipzig. Trong thư Wenzel nhắc tới một buổi hòa nhạc trình diễn Symphony No. 40 tại nhà nam tước Gottfried van Swieten với sự hiện diện của Mozart. Tuy nhiên chất lượng diễn xuất không cao do thiếu luyện tập đã khiến nhà soạn nhạc sớm rời khỏi khán phòng.
Một số bản sao các tờ chương trình hòa nhạc trong chuyến lưu diễn nước Đức vào năm 1789 của Mozart còn tồn tại đến ngày nay cũng khẳng định tác giả đã mang theo tác phẩm và cho trình diễn tại Dresden, Leipzig và Frankfurt. Bản sao tờ áp phích quảng cáo buổi hòa nhạc ngày 17/4/1791 do Tonkünstlersocietät (Hội nhạc sĩ) tổ chức tại Vienna dưới sự chỉ huy của Antonio Salieri cũng nêu rõ tiết mục mở đầu chương trình là “một bản giao hưởng lớn của ngài Mozart”.
Symphony No. 40 có tới hai phiên bản khác nhau. Phiên bản đầu tiên không có sự tham gia của hai kèn clarinet. Khi sửa lại tác phẩm, Mozart đã bổ sung bè clarinet vào biên chế nhạc cụ và chỉnh sửa đôi chút ở bè oboe cho thích hợp. Bản giao hưởng gồm bốn chương nhạc như thông lệ của trường phái cổ điển Vienna. Ngoại trừ chương thứ ba, các chương còn lại đều được viết ở hình thức sonata. Tác phẩm có thời lượng biểu diễn khoảng 26 phút.
Chương nhạc thứ nhất ở tốc độ Molto allegro bắt đầu ngay bằng phần trình bày chủ đề chính mà không có phần mở đầu theo truyền thống cổ điển. Ở đây tính chất hiếm có của cảm xúc âm nhạc là một bước tiến táo bạo. Nỗi xao xuyến xúc động ở chủ đề chính càng tăng thêm ở phần phát triển. Đoạn kết chan chứa nỗi buồn thầm lặng và ước mơ trữ tình.
Chương hai Andante thấm thía và cảm động.
Chương ba Minuet hầu như không có tính chất nhảy múa mà là một khúc nhạc nghiêm túc, chững chạc. Trong phần trio của chương ba, các yếu tố của điệu nhảy thượng lưu quý tộc mới được thể hiện rõ hơn.
Chương cuối Allegro assai gần gũi với chương đầu ở tính chất của những hình tượng với chuyển động nhanh, sôi nổi, hình thức gọn gàng.
Symphony No. 40 của Mozart là một mẫu mực và nguồn cảm hứng cho nhiều tác giả giao hưởng về sau. Ludwig van Beethoven đã chép lại 29 ô nhịp từ tác phẩm này vào một cuốn sổ tay. Rất có thể chủ đề mở đầu chương cuối Symphony No. 40 của Mozart là cảm hứng để Beethoven soạn chương ba giao hưởng số 5 “Định mệnh”. Hai bản giao hưởng này cũng giống nhau ở chỗ gây ấn tượng tức thời cho người nghe ngay từ những ô nhịp đầu tiên. 50 năm sau khi Mozart qua đời, Franz Liszt lúc tiến hành chuyển soạn chín bản giao hưởng của Beethoven cho đàn piano đã khẳng định rằng ngoại trừ âm lượng mỏng và sự đa dạng âm sắc thì người ta có thể tái tạo được ý nghĩa của thứ âm nhạc này trên đàn phím. Còn Mendelssohn thì bình luận: “Ồ, nếu Liszt có thể chơi đoạn mở đầu Giao hưởng giọng Sol thứ của Mozart bằng đàn piano như là nó được dàn nhạc chơi thì tôi tin ông ấy.”
Xét về số lượng giao hưởng, Mozart sáng tác ít hơn Joseph Haydn, nhà soạn nhạc đã cho ra đời tới hơn 100 bản giao hưởng và được coi là cha đẻ của thể loại. Nhưng với cuộc đời ngắn ngủi chỉ 35 năm và chất lượng cao đồng đều thì con số 41 bản giao hưởng của Mozart thật không thể xem thường. |
Với thính giả hậu thế, Symphony No. 40 luôn gây tác động mạnh mẽ nhưng theo các cách rất khác nhau, thậm chí là trái ngược. Vào thế kỉ 19, một nhà phê bình âm nhạc người Nga nghe thấy trong đó “nỗi bối rối đam mê, những khát khao và nuối tiếc của một tình yêu bất hạnh”. Màn sương thương cảm bao phủ tác phẩm khiến nó được ví như cuốn tiểu thuyết Nỗi đau của chàng Werther của Johann Wolfgang von Goethe. Nhưng Robert Schumann thì ngợi ca nó vì “vẻ thanh thoát và duyên dáng kiểu Hy Lạp”. Còn theo Alfred Einstein, một học giả về Mozart ở thế kỉ 20, thì bản giao hưởng mang tính chất “bi hùng” và có những đoạn nhạc “đắm chìm trong vực thẳm tâm hồn”. Hai đồng nghiệp của Einstein cho rằng tác phẩm “được viết bằng máu của chính tác giả”, trong khi những nhà bình luận khác lại coi trọng hơn hết những liên quan của nó tới thế giới opera hài. Sự đa chiều về cảm xúc này cũng là dễ hiểu với âm nhạc của Mozart bởi chẳng mấy khi có thể tìm được lời lẽ diễn đạt hoàn toàn thỏa đáng cho kiệt tác âm nhạc của một thiên tài.
Nguồn: Ngọc Anh - Tia Sáng
NGUYỄN VIỆT ĐỨC1.Về bản sắc văn hoá dân tộc.Mỗi dân tộc đều có một tiếng nói riêng, một cốt cách riêng được phản ánh thông qua những giá trị tinh thần và vật chất cụ thể, đó là bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc đó.
VĨNH PHÚCNghiên cứu, phê bình, giới thiệu Dân ca Nam Bộ trong giai đoạn này chúng tôi chỉ sưu tập được 15 bài, tuyển chọn và sử dụng 9 bài. Hầu như đều nổi trội lên 2 thể loại chủ yếu là Hò và Lý, kể cả những bài viết mang tính tổng quan về vùng dân ca này.
MẶC HY Hồi ký "Lúa vàng! Lúa vàng trên cánh đồng làng, tang tình tang, tang tình tang... Đêm nay, gặt mà lúa về... ta đập mà ta xay, ta giã mà ta giần..."
MAI VYSự sáng tạo nghệ thuật của giới nghệ sĩ biểu diễn xuất phát từ cảm xúc trước tác phẩm, trước cuộc sống. Đó là đặc thù trong quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Mối quan hệ đó bao giờ cũng là mối quan hệ có tính chất cảm tính. Người nghệ sĩ chân chính nào cũng có khả năng cảm xúc rất nhạy bén trước đối tượng được thể hiện. Họ có khả năng lồng trí tưởng tượng vào trong quá trình sáng tạo cốt để thâm nhập sâu hơn vào bản chất của các sự vật.
NGUYỄN THỤY KHACó thể nói, khi có loài người là có âm nhạc. Thực ra những âm thanh trong thiên nhiên, vũ trụ có trước loài người. Nhưng loài người không chỉ nghe được nó như loài thú chỉ đạt tới cảm xúc, mà còn nhận thức nó, bắt chước nó để tạo ra những âm thanh của mình. Một cành cây hay một khúc xương, người làm ra cây sáo. Sợi dây cung trở thành dây đàn. Một tấm da thú căng ra là thành cái trống.
MAI VYÂm nhạc là một bộ môn nghệ thuật có nhiều loại hình phong phú và đa dạng, từ làn điệu dân ca mộc mạc, từ nét nhạc tấu đơn giản của cây đàn nghiệp dư, đến những bản a-ri-a hết sức phức tạp trong ô-pê-ra hay các hình thức âm nhạc giao hưởng khác nhau như liên khúc giao hưởng, Trường ca giao hưởng.
NGUYỄN THỤY KHAVới độ dày gần nửa mét, gồm 7 quyển sách chia làm 5 tập (có tập 2 và tập 5 gồm 2 quyển) và bìa sách trình bày đẹp, trang trọng, bộ sách “Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX” là bộ sách âm nhạc đồ sộ và công phu nhất của ngành âm nhạc từ trước đến nay do Viện Âm nhạc Việt chủ biên và ấn hành vừa giới thiệu trước công luận gần đây.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã gần một năm, Anh từ biệt trần gian về cõi vĩnh hằng, tâm tưởng tôi vẫn vấn vương với Anh, vẫn luôn mường tượng thấy Anh với nụ cười tươi tắn, rất hồn nhiên, lại nhiều lúc thấy Anh đang mơ màng chìm trong một thế giới riêng tư xa thẳm nào đó.
NHẤT LÂMVâng.Ca khúc thời ấy thật hào hùng, sôi sục và đầy lãng mạn.Đó là đêm trước của tháng Tám năm 1945, những năm tháng của phong trào Việt Minh chuẩn bị cho ngày toàn dân vùng lên đánh đổ mọi thế lực thù địch để giải phóng dân tộc, đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Và cái mốc đó, theo tôi là từ ngày cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn) năm 1941.
VIỆT ĐỨCVề với Trường Sơn, về với kỷ niệm của một thời khói lửa đạn bom là tiếng lòng, là tâm nguyện của nhiều hội viên Hội nhạc sỹ Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế kể từ sau ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam 30/4/1975. Và sau gần 30 năm, mùa xuân 2004, tâm nguyện ấy đã trở thành hiện thực khi kỷ niệm của một thời chiến tranh cứ ào ạt ùa về theo bước chân các nhạc sỹ trở lại tuyến biên giới miền Tây A Lưới.
PHAN THUẬN THẢOGagaku - Nhã nhạc - là loại hình âm nhạc cung đình của Nhật Bản, đối lập với Zokugaku, tức âm nhạc dân gian. Thuật ngữ Gagaku được tiếp thu từ Trung Hoa cùng với sự tiếp nhận một bộ phận các nhạc khí và bài bản từ hệ thống âm nhạc cung đình phong phú và đặc sắc của đất nước Trung Hoa rộng lớn và giàu truyền thống văn hoá.
LÊ PHÙNGThế là không còn phút giây mong ngóng, đợi trông - “Ngày em đến đôi mắt long lanh, thơ ngây mơ màng, ngày em đến đôi má hây hây hương thơm nồng nàn...” Bởi chàng nhạc sĩ lãng tử ấy đã ra đi, về với cõi vĩnh hằng. Còn đâu nữa bóng hình của gã si tình say mê, đợi chờ ngày em đến.
Nhà thơ - Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo là một tên tuổi nổi tiếng như một nghệ sĩ đa tài Cầm Kỳ Thi Họa trong làng văn học nghệ thuật Việt . Ông là Ủy viên Hội đồng Thơ Hội Nhà Văn Việt Nam, người sáng lập và phụ trách tờ báo Thơ, nay là tạp chí Thơ; ông cũng là một trong những ngưới sáng lập ra Ngày Thơ VN.
DƯƠNG BÍCH HÀĐến hẹn lại lên - Festival Huế 2006 đã cận kề. Năm nay, ngoài các loại hình dân ca, dân nhạc, dân vũ; các lễ hội, kịch, tuồng... đặc sắc của Huế, ban tổ chức (BTC) Festival nhấn mạnh một số trọng tâm như: Giao lưu nhã nhạc Việt Nam - Nhật Bản - Hàn Quốc; không gian văn hoá cồng chiêng (nhân cồng chiêng được công nhận là di sản văn hoá); có dàn giao hưởng dân tộc; chương trình thử nghiệm đưa âm nhạc điện tử, nhạc Jar của Pháp kết hợp với âm nhạc truyền thống Huế, âm nhạc Phật giáo; và chương trình âm sắc Việt...
NGUYỄN XUÂN HOÀNGCó ngày bỗng dưng thấy lòng thật quạnh hiu. Một nỗi cô đơn nào đó khôn tả xâm chiếm tâm hồn. Tôi đi hoài, lang thang vô định trên những con đường phố Huế xanh xao ánh đèn vàng, bất chợt lòng vang lên giai điệu quen thuộc một ca khúc nào đó của Trịnh Công Sơn. Tự hát cho riêng lòng mình và thấy nỗi buồn vơi đi, lòng cơ hồ bằng an và niềm vui trở lại.
NGUYỄN VIỆT ĐỨCQua tiến trình phát triển của lịch sử âm nhạc thế giới, riêng trong lĩnh vực ca khúc chúng ta đều biết có những ca khúc là của mọi thời đại, có những ca khúc chỉ của một thời, có những ca khúc chỉ của một dòng nhạc phục vụ cho nhu cầu của một lớp công chúng riêng nào đó, có những ca khúc lại phù hợp với khá nhiều lứa tuổi và đông đảo công chúng, có những ca khúc chỉ của một vài ngày, có những ca khúc mãi mãi nằm trên giấy...
NGUYỄN THỤY KHAĐọc Dòng nước trong (Ca khúc Bích Anh), Nxb Đà Nẵng, 2006
HOÀNG DIỆP LẠCCó sự gắn kết nào đó gần như là định mệnh giữa hai con người Trịnh Công Sơn và Nguyễn Xuân Hoàng. Sơn và Hoàng có cùng quê quán ở huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Và cả hai đã sinh ra ở miền cao nguyên, nơi bụi đỏ và sương mù hoà trộn, tạo thành những hạt huyết dụ trôi chảy theo các mạch máu trong thân thể của những con người xứ bụi mịt mùng.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Kỷ niệm 6 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 1/4/2001 - 1/4/2007)Với dòng - sông - Trịnh, đi về biển rộng là một cuộc hành trình trở về với nguồn cội. Dòng sông tìm về biển cả để thấy được sự mệnh mông, hùng vĩ và tuôn trào của biển cả. Tuy nhiên đấy cũng là sự bắt nguồn cho những vết xước trầm tích trong lòng người ở lại - như cọng rễ hoang nay mới đủ sức đâm lên một mầm nhói!
NGUYỄN THỤY KHAVào khoảng năm 1962 ở miền Bắc, bỗng rộ lên một bài tình ca ngắn mang tên “Giã từ”. Bài hát được truyền miệng rộng rãi và nếu có ai đó ký âm thành văn bản thì đều ghi là bài hát Liên Xô (CCCP).