Kỉ niệm nhỏ về một bài thơ

11:02 09/02/2009
NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1989, báo Văn nghệ tổ chức cuộc thi thơ kéo dài trong 2 năm, tôi có gửi 5 bài thơ dự thi. Thơ gửi đi rồi, chưa mong được giải, chỉ mong được in báo Văn nghệ một vài bài vì trước đó tôi cũng đã nhiều lần gửi báo Văn nghệ nhưng chỉ được in một bài thơ “Giọng Nghệ”.

Đùng một cái, giáp Tết năm 1990, đang buồn vì vợ mới mất, một thân một mình với ba đứa con còn nhỏ dại, ruột gan rối bời thì các anh Nguyễn Xuân Phầu, Nguyễn Công Hiên đến báo tin: “Cậu có điều mừng, báo Văn nghệ số Tết in bài thơ Tản mạn dọc đường 38”. Tôi mừng lắm, tìm báo đọc, thấy bài thơ của mình in cùng trang với các bài Nông dân của Nguyễn Sĩ Đại, Sao Thần nông của Võ Thanh An...
Dạo ấy, đất nước đang bước vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Ở huyện chưa có ti vi, báo Văn nghệ chỉ có một số cơ quan như Ban Tuyên huấn, Phòng Văn hoá, các trường cấp 3 đặt mua nhưng bài Tản mạn dọc đường 38 của tôi được nhiều người ở Yên Thành chép, chuyền tay nhau đọc, ở các quán cóc dọc đường làng. Có nơi còn đọc ở cuộc yến lão của xóm. Tiếp đó, trong chùm thơ Tết của Đài phát thanh Nghệ Tĩnh cũng ngâm bài thơ của tôi, được đài huyện, các đài truyền thanh xã tiếp âm, nên càng được phổ biến rộng thêm. Bạn bè, anh em văn nghệ, bạn giáo viên trong huyện nhiều người đến chúc mừng cho tôi. Nhưng mừng chưa kịp no, một buổi họp lãnh đạo huyện, có người nói: “Bài thơ của Ngô Đức Tiến có vấn đề. Anh Tiến ăn cơm dân, mặc áo Đảng mà làm thơ nói xấu huyện, gây khó dễ cho lãnh đạo”. Lại có người tung tin, bài thơ Tản mạn dọc đường 38, Tuyên huấn Tỉnh có ý kiến về mấy câu:
            “Nhịp sống đi qua bao nỗi nhọc nhằn
            Chi chít vết bùn non trên mặt đường 38
            Chống hạn chưa xong bão dông ập đến
            Nước mắt gừng thấm vạt áo em tôi

            Mấy ngàn liệt sĩ quê ta nằm lại nơi góc biển chân trời
            Có ai gửi đơn về đấu thầu mặt tiền đường 38”

Không biết Tuyên huấn Tỉnh có ai nói thế không nhưng tung cái tin ấy ra thật không có lợi cho tôi tý nào, không phải vì sắp Đại hội Đảng bộ huyện, tôi sẽ không được bầu vào ghế này ghế nọ mà vì tôi viết về những chuyện tôi cảm, tôi nghĩ trước những đổi thay của cuộc sống, nào có ý gì xấu đâu.
Sau này, khi sự nghiệp đổi mới phát triển, bài thơ được nhìn nhận đúng, được in trong các tuyển tập “Thơ Nghệ An thế kỷ XX”, Thơ Sông Hương 20 năm” và một số tuyển tập khác.Thời ấy có người thổi phồng lên, xem như một cái án Văn học, xem tôi là người “có vấn đề về tư tưởng chính trị, lập trường tiểu tư sản”.
Một số bạn bầu thân tín rỉ tai tôi: “Cậu cứ yên trí, thơ có vấn đề càng được lưu truyền rộng”, cũng có người động viên ”theo tớ thì đây là một bài thơ hay của những năm đầu đổi mới cậu không cần gì phải sợ”.

Bạn bè nói thế nhưng từ sau ngày bài thơ được in, các vị lãnh đạo chủ chốt trong huyện nhìn tôi bằng con mắt khác. Có người trong Thị trấn làm được nhà tầng cũng cho tôi làm thơ phê phán họ. Có người còn làm một bài thơ, phóng tác theo bài Tản mạn dọc đường 38, đủ chừng ấy câu nhưng nói về Đổi thay trên đường 38, cũng được đọc, được chép tay, được phát trong các cuộc họp. Có người lo cho tôi: “lần này thế nào Ngô Đức Tiến cũng bị kỷ luật, không về đi cày cũng bị cách chức Trưởng ban Tuyên huấn”.
Cái tạng của tôi là chỉ khi nào có cảm xúc, tôi mới làm thơ, những bài thơ tôi viết ra đều là gan ruột tình cảm, suy nghĩ của mình. Tôi rất ít khi làm thơ theo đơn đặt hàng. Và đã viết ra rồi thì không sợ. Nhưng cùng một lúc, có nhiều ý kiến trái ngược nhau, quả thật lúc ấy tôi cũng hoang mang.

Đang trong lúc tâm trạng rối bời thì chiều ngày mồng 9 tháng giêng, tôi đang làm việc ở cơ quan thấy các anh Trần Hữu Thung, Nguyễn Xuân Phầu, Nguyễn Công Hiên vào thăm chơi. Anh Thung nói: “Mình đọc báo, biết cậu có thơ in Văn nghệ số Tết, nhưng bị cảm nên hôm nay mới lên Yên Thành thăm anh em, thăm huyện, mừng cho cậu”. Nói rồi, anh Thung bảo tôi: “Mấy anh em ta cùng sang chào Bí thư, Chủ tịch một chút rồi ra nhà Hiên ta uống rượu”. Lúc còn sống, anh Trần Hữu Thung thường chơi thân với anh em văn nghệ và cả các cán bộ chủ trì huyện. Lãnh đạo huyện Yên Thành ai cũng phục tài đức của anh Thung. Anh đi lại, giúp Huyện sưu tầm, dịch thuật tài liệu lịch sử, mở trại sáng tác... nên vào ra cơ quan huyện ai cũng biết anh, trọng nể anh.

Mấy anh em chúng tôi theo anh Thung vào thẳng nhà họp Thường trực. Lúc đó, các vị chủ chốt đang hội ý nên có mặt cả Bí thư, Phó Bí thư thường trực, Chủ tịch UB... Anh Thung vui vẻ bắt tay từng người rồi anh nói to chừng như để ai cũng nghe rõ, một điều ít thấy ở anh Thung: “Tết nhất, biết các anh bận, hôm nay tôi mới lên thăm các anh. Mừng cho Yên Thành năm nay được mùa thóc gạo lại được mùa cả văn chương. Vở kịch “Hạt gạo huyện Yên” của Phan Thế Phiệt được huy chương Vàng hội diễn văn nghệ toàn tỉnh, bài thơ “Tản mạn dọc đường 38” của Ngô Đức Tiến được in báo Văn nghệ Trung ương số Tết Âm lịch. Báo Văn nghệ của Hội Nhà văn là tờ báo khắt khe, những bài in số thường đã khó, in số Tết lại càng khó hơn. Báo số Tết, văn cũng như thơ, Tổng Biên tập, Tuyên huấn Trung ương duyệt từng bài. Tôi đã làm biên tập ở báo Văn nghệ một số năm, tôi biết thơ có trúng, có hay mới được in báo Tết. Thật mừng cho huyện, cho các tác giả huyện nhà”.

Được lời như cởi tấm lòng, nghe anh nói tôi mừng thầm trong bụng. Nhìn sắc mặt các vị chủ trì huyện có mặt hôm ấy tôi thấy họ vừa ngạc nhiên, vừa thán phục. Riêng Bí thư huyện uỷ phát biểu ngay:
“Chúng tôi rất mừng được đón anh Thung và các anh về thăm huyện. Từ trước Tết đến nay, tôi có nghe dư luận nói về bài thơ Tản mạn dọc đường 38 của anh Ngô Đức Tiến có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Có người còn nói với tôi anh Tiến là phần tử phản động. Chúng tôi cũng đang thận trọng nghe ngóng, đang định ngày mai vào Vinh họp Chấp hành Tỉnh uỷ, hỏi ý kiến của các anh Trưởng ban Tuyên huấn, Giám đốc Sở Văn hoá, cần thiết hỏi ý kiến Thường trực tỉnh uỷ xem cơ quan chuyên môn đánh giá bài thơ đó thế nào để có cách định hướng dư luận. Nếu tốt thì ta sử dụng, nếu có vấn đề thì xin ý kiến cấp trên xử lý. Không lấy văn thơ vận vào người, nếu xử lý sai thì oan cán bộ, mà tổ chức Đảng không được phép làm như thế. Nay nghe anh Thung trao đổi, chúng tôi mừng lắm. Cũng là dịp để lãnh đạo huyện hiểu rõ anh Tiến hơn vì anh Tiến vừa làm Tuyên huấn vừa làm thơ nên dễ bị người khác hiểu sai. Thế là rõ rồi. Cảm ơn anh Thung và các anh”.

Sau ý kiến Bí thư, một vài vị lãnh đạo tiếp tục phát biểu. Câu chuyện văn chương còn kéo dài một hồi khá lâu. Bí thư, Chủ tịch huyện mời anh Thung và chúng tôi cùng ở lại dùng cơm nhưng anh Thung cáo bận, xin về nhà bạn. Tôi thấy Bí thư Huyện uỷ nói nhỏ với Chánh văn phòng đem biếu anh Thung, anh Phầu và chúng tôi mỗi người một chai mật ong, nghe nói của dân đi rừng Động Cầu, chắc là lấy trong số quà Tết của Huyện chuẩn bị đi họp Tỉnh.
Rời trụ sở huyện, mấy anh em chúng tôi đạp xe về nhà Nguyễn Công Hiên, hiệu ảnh Yên Thành, “đại bản doanh” của anh em văn nghệ huyện lúa, gọi thêm Phan Tường Hy và một số bạn văn làm bữa rượu thật vui.
Việc tưởng như phức tạp nhưng anh Thung xử sự thật đơn giản. Sau lần ấy, các anh lãnh đạo huyện nhìn tôi bằng con mắt khác hơn. Dư luận ngược chiều dịu đi. Bài thơ thì được truyền tụng rộng hơn. Năm đó, tôi được bầu vào Ban thường vụ Huyện uỷ, lại vừa làm Tuyên huấn vừa làm thơ, như là nghiệp, là duyên số đã được trời định vậy.

Hơn 15 năm qua, bây giờ các anh Trần Hữu Thung, Nguyễn Xuân Phầu, Nguyễn Công Hiên đã trở thành người thiên cổ. Tết đến xuân về, chi hội Văn nghệ Yên Thành đã có tập văn thơ Sông Dinh, dòng sông văn hoá văn nghệ của quê lúa Yên Thành, ngày hội thơ Rằm tháng Giêng vắng bóng Trần Hữu Thung, Nguyễn Xuân Phầu, Nguyễn Công Hiên... nhưng kỉ niệm về các anh thì vẫn còn sống mãi!
Mùa đông 2004
N.Đ.T

(nguồn: TCSH số 192 - 02 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THỊ MỸ LỘCLà người biết yêu và có chút văn hóa không ai không biết Romeo and Juliet của Shakespeare, vở kịch được sáng tác cách ngày nay vừa tròn 410 năm (1595 - 2005). Ngót bốn thế kỷ nay Romeo and Juliet được coi là biểu tượng của tình yêu. Ý nghĩa xã hội của tác phẩm đã được thừa nhận, giá trị thẩm mĩ đã được khám phá, hiệu ứng bi kịch đã được nghiền ngẫm... Liệu còn có gì để khám phá?

  • NGUYỄN VĂN HẠNH1. Từ nhiều năm nay, và bây giờ cũng vậy, chúng ta chủ trương xây dựng một nền văn nghệ mới ngang tầm thời đại, xứng đáng với tài năng của dân tộc, của đất nước.

  • HỒ THẾ HÀ(Tham luận đọc tại Hội thảo Tạp chí văn nghệ 6 tỉnh Bắc miền Trung)

  • LÊ GIA NINHNgày 10 tháng 10 năm 1955, Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bừng lên niềm vui, ngập trong cờ, hoa và nắng thu. Những chàng trai ngày “ra đi đầu không ngoảnh lại”, trải qua cuộc trường chinh ba ngàn ngày trở về trong niềm vui hân hoan và những dòng “nước mắt dành khi gặp mặt” (Nam Hà).

  • THANH TÙNGChống tham nhũng, đục khoét dân lành không chỉ là công việc của nhà chức trách mà còn ở tất cả mọi người dù ở chế độ xã hội nào. Các thi sĩ không chỉ làm thơ ca ngợi cuộc sống tình yêu, đất nước con người mà còn dùng ngọn bút thông qua nước thi phẩm của mình để lên án, vạch mặt bọn quan tham này.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNTrong lịch sử các nhà khoa bảng ở Việt , ít có gia đình nào cả ba ông cháu, cha con đều đỗ Trạng nguyên. Đó là gia đình Trạng nguyên Hồ Tông Thốc ở Kẻ Cuồi, Tam Công, Thọ Thành, Yên Thành, Nghệ An.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊN1. Trước hết ta phải bàn với nhau về chữ hay, tức thế nào là một tác phẩm hay. Bởi cái hay không bất biến trong không gian và thời gian, nó vận động và biến đổi tùy theo hoàn cảnh, với những tiêu chí cụ thể khác nhau.

  • TRẦN HUYỀN SÂMRuồng bỏ - Disgrace (1) là một cuốn tiểu thuyết mang phong cách giản dị. Nhưng đó là sự giản dị của một bậc thầy về thể loại roman. Giới lý luận văn học và các chính trị gia phương Tây (2) đã đặt ra những câu hỏi có tính hoài nghi. Điều gì ở cuốn sách có độ trang khiêm tốn này đã mang lại giải Nobel cho Coetzee: Vấn đề kỹ thuật tiểu thuyết, nỗi điếm nhục về nhân cách con người, hay là bi kịch lịch sử hậu Apartheid?

  • NGUYỄN THÀNHLịch sử phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX đánh dấu bởi nhiều khuynh hướng phê bình hiện đại: phê bình ấn tượng, phê bình phân tâm học, phê bình xã hội học, phê bình mác xít, phê bình thi pháp học...

  • TRẦN LỘC HÙNG“NỒI HƠI NGUYÊN TỬ” NGĂN NGỪA THẾ CHIẾN THỨ BAChuyện kể rằng sau cuộc thử nghiệm thành công của trái bom nguyên tử đầu tiên vào năm 1949, cha đẻ của nó - Igor Vaxilevich Kurchatov - đã khóc nức nở.

  • HÀ VĂN THỊNHSố 7 là một con số huyền thoại. Nếu như tính xuất xứ xa nhất, công đầu về việc “tìm ra” số 7, thuộc về người Ai Cập, cách nay ít nhất 5.000 năm. Khi hiểu được rõ ràng việc con sông Nil chia làm 7 nhánh trước lúc đổ ra Địa Trung Hải, người Ai Cập vận “lý” để tin là nó nhất định phải hàm chứa nghĩa bí ẩn nào đó phản ánh cái “tư tưởng” triết lý của Đấng Tạo hóa.

  • TRẦN VIẾT THIỆNNăm 1987, người ta từ ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến sững sờ trước sự trình làng của một cây bút đã vào độ tứ tuần. Tuổi bốn mươi lại là thời kỳ son sắt nhất của cây bút này, nói theo quan niệm của ông: “Đời viết văn cũng giống như đời người đàn bà”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO - NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Trích)...

  • TRẦN NGỌC CƯChúng ta thường nghĩ rằng ở trong mỗi tâm hồn Việt Nam đều có một thi sĩ, hay nói thế khác, người Việt Nam sinh ra và lớn lên trong bầu khí văn hoá ra-ngõ-gặp-thi-nhân. Đầu đời là những câu ca dao mẹ hát ru con, cuối đời là câu kinh tiếng kệ, những lời nguyện cầu, đều là thơ cả.

  • PHẠM TUẤN ANHSau 1975, văn xuôi đóng vai trò chủ đạo trong vận động đổi mới của văn học Việt Nam. Vai trò cách tân của văn xuôi đã được khẳng định đồng thời với vị thế mới của cái hài. Cái hài, với tiếng cười hài hước (humor) phồn thực đã góp phần quan trọng trong quá trình giải thể ý thức “quần thể chính trị”, để văn học thoát khỏi cục diện nhất thể của cái cao cả, sáp tới cuộc sống muôn màu với những giá trị thẩm mĩ đa dạng.

  • TUẤN ANH“Ở đâu bản năng nghèo nàn, nhân cách cũng nghèo nàn” (Jean Lacroix)

  • NGUYỄN THẾNhững năm gần đây, vấn đề nghiên cứu về Truyện Kiều đã được các học giả Việt trong và ngoài nước quan tâm. Nhiều cuộc trao đổi, thảo luận về Truyện Kiều được đưa ra trong các cuộc hội thảo chuyên ngành về ngôn ngữ, văn học và trên diễn đàn báo chí, Internet...

  • NGUYỄN VĂN HẠNHI. Có những quan niệm khác nhau về bản chất, chức năng của văn chương, và có những cách thức khác nhau trong sáng tạo và khám phá văn chương, tuỳ theo hoàn cảnh, mục đích, trình độ, khuynh hướng nhận thức và hoạt động của con người trong lĩnh vực này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam 1957-2007)

  • TÔN ÁI NHÂNThật ra, những điều mà nhà văn, Đại tá Tôn Ái Nhân nêu ra dưới đây không hoàn toàn mới so với “búa rìu dư luận” từng giáng xuống đầu các nhà văn đương đại. Và, bản thân chúng tôi cũng không hoàn toàn đồng tình với tất thảy những sự kiện (kể cả những vấn đề nhạy cảm) mà ông đã “diễn đạt” trong 14 trang bản thảo gửi tới Tòa soạn. Chính vì vậy, chúng tôi đã xin phép được cắt đi gần nửa dung lượng, để “THẤT TRẢM SỚ” NHÀ VĂN đến với bạn đọc một cách nhẹ nhàng hơn. Nhân đây cũng muốn gửi tới tác giả lời xin lỗi chân thành, nếu như lưỡi kéo của Sông Hương hơi “ngọt”.