L.T.S: Narayan là nhà văn miền Nam Ấn Độ, sáng tác bằng tiếng Anh. Sinh 10/10 năm 1906 tại làng Madras (mất 13/5/2001), từng sống ở thành phố Mysore cổ kính của quê hương ông.
Nhà văn R.K. Narayan - Ảnh: wiki
Ông đã viết 13 cuốn tiểu thuyết, 5 tập truyện ngắn, 3 cuốn chuyển thể các tác phẩm cổ điển Ấn Độ như Mahabharata, Ramayana, 2 cuốn du ký, 2 tập khảo luận và 1 cuốn tự thuật.
Truyện ngắn dưới đây dịch từ nguyên tác trong tập truyện "Một ngày của nhà chiêm tinh".
R.K. NARAYAN
Khúc nhạc rắn
Chúng tôi bước ra khỏi phòng hòa nhạc với một tâm trạng hoàn toàn thoải mái. Chúng tôi nghĩ đây là một buổi trình diễn rất hay. Ý nghĩ này kéo dài cho đến khi chúng tôi để ý đến anh chàng Ba Hoa lẫn lộn trong đám chúng tôi. Anh ta có vẻ như vừa trong phòng tra tấn bước ra. Chúng tôi dồn mắt nhìn anh ta một cách khó chịu:
- Chúng tôi nghĩ anh là một trong những người uyên bác cho rằng nền âm nhạc của miền Nam Ấn Độ đã chết cách đây một trăm năm. Hay có khi nào đó anh giao du thân mật với tất cả những nhạc sĩ biểu diễn và những nhà soạn nhạc cổ điển của chúng ta đối với lý do duy nhất mà nhiều người như anh nghĩ là tất cả những bài hát hiện đại là ngây ngô và cuồng loạn không? Hay anh là một trong những nhà lý luận nông nổi không bao giờ nghe được một bản nhạc không có cấu trúc rõ ràng?
- Không hẳn thế đâu, người Ba Hoa trả lời - Tôi chỉ là một sinh vật tầm thường hiểu được mình muốn cái gì thôi. Tôi biết chút đỉnh về âm nhạc, có lẽ ít hơn các vị ở đây, và đó là lý do làm tôi kinh tởm khi thấy trình độ thưởng ngoạn âm nhạc của con người bị hạ thấp.
Chúng tôi thử làm mất mặt anh ta bằng cách im lặng nghe những lời nói đó và chỉ nói chuyện với nhau thôi. Nhưng anh ta cứ theo đuổi chúng tôi suốt câu chuyện gẫu trên đường đi, vì thế chúng tôi buộc lòng nghe anh ta kể.
- Nhìn tôi lúc này - người anh Ba Hoa nói - có lẽ các vị tưởng tôi chẳng có năng khiếu nghệ thuật hơn là bán phân hóa học cho những nông dân. Nhưng tôi xin thưa với các vị đã một lần tôi khát khao trở thành một nhạc sĩ và tôi gần đạt được ước muốn của mình. Chuyện này đã xảy ra cách đây nhiều năm. Lúc đó tôi sống ở Kumbam một ngôi làng nhỏ cách Malgudi tám mươi dặm. Ở đó có một ông thầy dạy nhạc. Có thể nói rằng khi ông thổi sáo, các gia súc trong làng đều nối đuôi theo ông. Có lẽ ông là một nghệ sĩ vĩ đại nhất thế kỷ, nhưng luôn luôn hài lòng với cuộc sống ẩn dật của mình. Ông chẳng bao giờ bước chân ra khỏi làng, chỉ chơi nhạc phục vụ cho ngôi đền làng và thỏa mãn một cách tuyệt đối với số lợi tức khiêm tốn thu được từ đất đai của tổ tiên để lại. Tôi giặt áo quần, quét nhà, làm việc vặt và ghi chép sổ sách thu chi cho ông. Chỉ khi nào cảm thấy thích, ông mới dạy cho học nhạc. Cá tính và bộ dạng của ông rất độc đáo, không giống ai cả. Ngay cả việc dạy dỗ, tôi chỉ cần học với ông một giờ cũng đáng giá bằng một năm dưới sự hướng dẫn của người khác. Phong cách của ông là thế đó.
Sau ba năm rèn luyện âm nhạc cho tôi, thầy tôi thấy tôi đã đạt đến một trình độ khả quan. Ông nói: "Một năm nữa con có thể xuống phố mà biểu diễn trước công chúng nếu con thích". Các vị phải biết là tôi rất thích. Tôi không muốn sống mãi trong bóng tối. Tôi muốn giàu sang và nổi tiếng. Tôi mơ tưởng đến Madras để tham gia liên hoan âm nhạc vào năm tới, và rồi cả thành phố đâu đâu người ta cũng nhắc đến tên tôi. Tôi xem cây sáo trúc của mình như một cây gậy thần sẽ mở ra cho tôi một thế giới mới.
Tôi sống trong một thảo lư ở cuối con đường. Tôi có thói quen thức khuya và tập dượt trong đêm vắng. Một đêm tôi đang đắm mình trong tấu khúc bhairavi raga(1) thì có tiếng gõ cửa. Tôi nổi cáu vì bị cắt ngang.
- Ai thế? Tôi hỏi.
- Một sadhu (2), ngài cần xin một miếng ăn.
- Vào giờ này à. Đi đi. Chớ đến quấy rầy người ta lúc nào cũng được.
- Nhưng cái đói đâu có biết thời gian.
- Cút xéo ngay. Ở đây chẳng có gì cả. Chính tôi cũng sống bằng của bố thí của thầy tôi.
- Nhưng với một sadhu, người không thể cho được một xu, hay ít nhất là một lời tử tế sao? Ngài đã đến Kashi Rameswaram... (3)
- Câm mồm, tôi hét lên, trừng mắt nhìn vào cánh cửa rồi lại chơi tiếp tấu khúc bhairavi.
Mười lăm phút sau, tiếng gõ cửa lại vang lên. Tôi mất bình tĩnh.
- Ông không có tâm hồn sao? Sao ông lại quấy rầy tôi?
- Ông chơi điêu luyện quá. Không cho tôi vào phải không? Ông có thể không bố thí cho tôi cái ăn, nhưng đừng từ chối tôi nghe ông thổi sáo.
Tôi không muốn ai có mặt trong lúc tôi đang tập dượt, và bị gián đoạn liên tục như thế này làm tôi điên tiết.
- Đừng có đứng đó mà lải nhải - Nếu ông không đi ngay, tôi sẽ mở cửa tống ông ra ngoài.
- A, toàn những lời tồi tệ. Ông không cần tống tôi đi. Tôi đi thôi. Nhưng hãy nhớ đây là ngày cuối cùng trong cuộc đời chơi sáo của ông. Ngày mai ông sẽ đổi cây sáo của ông để lấy một que củi khô vô tích sự.
Tôi nghe tiếng guốc của ông ta bước xuống tam cấp. Tôi cảm thấy khoan khoái và thổi lại chừng mười phút... Nhưng rồi tâm thần tôi dao động. Những lời từ biệt của ông ta... ông ta muốn nói điều gì? Tôi đứng lên, lấy cây đèn lồng treo trên tường rồi đi ra ngoài. Tôi đứng trên bậc tam cấp cuối cùng, giơ cao ngọn đèn, nhìn khắp lượt con đường tối đen. Tôi quay vào. Với sự hy vọng mong manh rằng ông ta có thể gọi lại một lần nữa, tôi để hé cánh cửa. Tôi treo cây đèn và ngồi xuống. Tôi nhìn vào ảnh những vị thần treo trên tường và cầu nguyện được che chở khỏi lời nguyền rủa của kẻ khất sĩ vô hình kia. Rồi sau đó tôi lại đắm mình trong suối nhạc.
![]() |
Minh họa: PHẠM ĐẠI |
Hết bản này đến bản khác tuôn ra từ cây sáo trúc bé nhỏ của tôi và làm biến đổi cả cái thảo lư cô tịch của tôi. Tôi không còn là một con người tầm thường đang thổi một ống trúc nữa. Tôi hòa nhập cùng các vị thần linh. Cây đèn treo trên tường hóa thành một vì sao sáng chói chiếu sáng một căn phòng hòa nhạc màu xanh da trời... Và tôi bước vào khúc nhạc rắn trong tấu khúc Punnaga Varali (4). Tôi thấy một con rắn đầy vẻ uy nghi: cái nọc độc trong miệng nó phảng phất một chút hào quang. Bây giờ tôi bắt gặp cái vẻ thần thánh của nó khi nó nằm trên đầu thần Shiva, vòng trong tay thần Parvathi như một vòng xuyến, đùa nghịch với thần Subramanya và là chiếc giường ngủ của thần Vishu... Toàn bộ cảnh tượng này từ con rắn truyền ra gây cho tôi một cảm giác sợ hãi và tôn kính.
Và ngay lúc đó, tôi nhìn thấy ở giữa cánh cửa với tôi không có gì khác ngoài con rắn mang bành đen kịt. Nó dựng đứng cái mồng và lắc lư như điên như dại. Tôi ngừng thổi, dụi mắt xem mình có hoàn toàn thức không. Nhưng trong giây phút khúc nhạc ngưng, con rắn quay đầu ném cái nhìn chòng chọc vào mắt tôi, rồi trườn đến. Trong đời tôi, chưa bao giờ trông thấy một con rắn mang bành đen đến thế, và dài đến thế. Bản năng sinh tồn bảo tôi: "Chơi tiếp đi! Đừng dừng". Tôi vội vàng lấy cây sáo để lên môi và thổi tiếp khúc nhạc. Con rắn, lúc này chỉ cách tôi chưa đầy ba thước, nâng một phần tư thân hình lên, với cái mồng mảnh mai hoa mỹ dựng đứng trên đầu, tròn xoe đôi mắt chăm bẳm nhìn tôi. Nó đang lắng nghe tiếng nhạc trong một tư thế bất động giống một con rắn được tạo bằng đá đen.
Trong khi tôi chơi, mắt tôi không rời khỏi nó, lòng đầy cảm kích vì tư thế uy nghiêm chững chạc của nó, và tôi phải tự nhủ: "Vị thần nào muốn chối bỏ đặc ân mang con rắn này trên đầu"... Sau khi chơi khúc nhạc này đến lần thứ ba, tôi bắt đầu bản mới. Con rắn thình lình quay đầu nhìn tôi như muốn nói: "Thứ đó là cái gì thế"? rồi rít lên một tiếng nghe rợn người và nhẹ chuyển mình. Tôi nhanh chóng thổi lại khúc nhạc rắn và nó lại đứng yên như một pho tượng.
Tôi thử thay đổi khúc nhạc một đôi lần, nhưng tôi thấy con rắn cứ cử động với vẻ đe dọa. Tôi cố gắng một cách tuyệt vọng để đứng lên và lao ra ngoài, nhưng con rắn đứng sát bên tôi hứa hẹn sẽ kết liễu đời tôi. Vì thế tôi chơi khúc nhạc này suốt đêm. Dần dần tôi cảm thấy đuối sức. Đầu tôi quay cuồng, hai má tôi đau vì phải thổi liên tục, ngực tôi hình như không còn giọt hơi thở cuối cùng. Tôi biết mình sẽ rơi vào cái chết trong một vài giây sắp tới. Nếu con rắn quấn vào người tôi rồi phun nọc độc giết tôi thì cũng chẳng có gì đáng tiếc cả. Tôi ném cây sáo xuống, đứng dậy, rồi phủ phục trước mắt nó và la lên "Ô, Naga Raja" (5), ngài là vị thần linh, ngài có thể giết tôi, nhưng tôi không thể nào thổi được nữa..."
Khi tôi mở mắt ra, con rắn đã biến mất. Ngọn đèn trên tường đã nhạt nhòa trong ánh sáng ban mai. Cây sáo của tôi nằm gần ô cửa.
Ngày hôm sau, tôi kể lại chuyện này cho thầy tôi nghe. Ông bảo:
- Con chẳng biết rằng chớ nên chơi tấu khúc punnaga varali vào ban đêm sao? Bây giờ con không thể nào biết chắc được là con sẽ không gặp lại con rắn kia nếu con chơi nhạc. Và khi nó trở lại, nó sẽ không tha cho con đâu, trừ khi con chơi lại khúc nhạc đó. Con đã chuẩn bị cho trường hợp như thế chưa?
- Không, không, ngàn lần không, tôi thốt lên.
Kỷ niệm về khúc nhạc đó đang sống dậy trong tôi. Tôi phải thổi đi thổi lại nhiều lần để kéo dài cuộc đời tôi rồi.
- Nếu thế thì hãy ném cây sáo của con và quên đi vốn liếng nhạc mà con đã học được. Con không thể thổi sáo cho một con rắn nghe. Đó là trò đùa của thần thánh. Hãy ném cây sáo trúc của con đi. Nó không còn có ích gì cho con nữa...
Tôi đã khóc khi nghĩ đến việc hy sinh này. Thầy tôi thương hại tôi và nói:
- Có lẽ mọi sự sẽ tốt đẹp như trước nếu con tìm được vị khách của con đó và xin ông ta tha thứ. Liệu con tìm trong đêm được ông ta không?
Tôi từ bỏ cây sáo của tôi. Từ hôm đó tôi luôn luôn đi tìm một kẻ khất sĩ vô hình, không tên tuổi trên thế giới này. Ngay lúc này, nhờ ơn thượng đế, tôi gặp ông ta, tôi sẽ quỳ xuống chân ông ta xin tha lỗi để được cầm lại cây sáo của tôi.
LÊ KÝ THƯƠNG dịch
(SH23/01-87)
-----------------------
(1) Bhairavi raga: một trong những tấu khúc nổi tiếng nhất trong âm nhạc cổ truyền của Ấn Độ.
(2) Sadhu: nhà tu khổ hạnh của Ấn Độ giáo.
(3) Kashi, Rameswaram: hai địa điểm hành hương.
(4) Punnaga Varali: tên một tấu khúc cổ truyền khác.
(5) Naga Raja: Vua của loài rắn.
LTS: Henri Troyat (1-11-1911_4-3-2007) sinh tại Matx-cơ-va, định cư ở Pháp kể từ 1920, thuộc Viện Hàn lâm quốc gia Pháp từ 1959, một trong những cây bút viết khỏe nhất của văn học Pháp hiện đại. Chuyên viết tiểu thuyết, truyện ngắn. Ngoài ra, nghiên cứu về Đốtx-tôi-ép-xki, Tôn-xtôi, Lét-mông-tốp, Ô-la, Ban-zắc… Truyện ngắn của ông giàu nét dí dỏm, ký họa.
Atiq Rahimi sinh năm 1962 tại Afghanistan, nhưng đến sống ở Pháp vào năm 1984. Tại Pháp ông trở thành một nhà văn, nhà làm phim tài liệu và phim truyện nổi tiếng. Tiểu thuyết của ông “The Patience Stone - “Nhẫn thạch” được giải thưởng danh giá Prix Goncourt năm 2008. Phim dựa trên tiểu thuyết của ông “Earth and Ashes - Đất và Tro” được tuyển chọn chính thức tại liên hoan phim Cannes năm 2004 và được một số giải thưởng.
IVAN XÔCHIVESNgười chồng lý tưởng - đấy là tôi. Mẹ vợ, vợ tôi và đa số bạn gái của nàng đều gọi tôi như vậy.
LTS: Nhà văn Xô-viết Alêchxây Marinat là tác giả nổi tiếng của một số tiểu thuyết và kịch. Nhưng những tác phẩm làm cho ông nổi tiếng trước hết đối với tất cả các độc giả là những truyện ngắn hài hước. Tính hài hước trong các truyện ngắn của ông rất nhẹ nhàng nhưng sắc sảo. “Hoa tặng Ka-lum-ba” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của Alêchxây Marinat.
LTS: Vaxin Bưcốp sinh năm 1924 tại làng Tsê-rê-pốp-si-na, vùng Vi-tép-xcơ, nước cộng hòa Bêlôruxia. Ông từng đứng trong hàng ngũ quân đội Xô Viết chiến đấu chống phát-xít Đức. Tác phẩm của ông bắt đầu được xuất bản từ năm 1956. Ông thuộc một trong những tác giả viết về chiến tranh nổi tiếng của Liên Xô. Những tác phẩm của ông được nhiều người biết đến là: Phát tên lửa thứ ba, cuộc hành quân núi An-pơ, những người chết không biết đến xấu hổ, những con chó sói… ông đã nhận giải thưởng quốc gia của Liên Xô, giải thưởng I-a-cúp Kô-la-xơ của nước cộng hòa.
LTS: William Somerset Maugham (1874 - 1965) là một nhà văn Anh nổi tiếng, viết nhiều, với bút pháp hiện thực sắc sảo, soi rọi những khía cạnh mâu thuẫn nghịch chiều của cuộc sống, phác hiện những nét sâu kín của bản tính con người. Lối văn của ông trong sáng, khúc chiết, ông lại có biệt tài dẫn truyện hấp dẫn, lý thú, đặc biệt phong cách của ông thường hài hước, sâu cay.Là nhà văn đa tài, ông vừa là tiểu thuyết gia có tiếng, vừa là người viết truyện ngắn bậc thầy, và cũng là một kịch tác gia thành công.
NOBUKO TAKAGI(Tiếp theo Sông Hương số 256 tháng 6 - 2010)
LTS: Tên tuổi Azit Nê-xin đã trở nên quen thuộc với chúng ta. Là tác giả của tập truyện châm biếm nổi tiếng “Những người thích đùa” đã được dịch ra tiếng Việt, ông là trưởng đoàn nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ dự hội nghị BCH Hội Nhà văn Á Phi và cuộc gặp gỡ các nhà văn Á Phi ở nước ta vào tháng 10-1982.
A-đa-mô-vích sinh ra và lớn lên cùng cha mẹ trong làng công nhân ở Gơ-lu-sa, tại Bi-ê-lô-rút-xi-a. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, nhà văn mới 14 tuổi nhưng đã theo mẹ và anh tiếp tế cho du kích quân.
LGT: Bóng cây phong lan được trích từ tuyển tập truyện ngắn Nhật Bản có nhan đề chung Bên trong do Nhà xuất bản Kodansha tuyển chọn và giới thiệu, được Nhà xuất bản Thuận Hóa (Huế) tổ chức dịch ra tiếng Việt và phát hành ở trong nước. Tuyển tập gồm 8 truyện ngắn của 8 nhà văn nữ với đề từ chung: Phụ nữ Nhật viết về phụ nữ Nhật. Bên trong là nhan đề, mà cũng là chủ đề của tất cả các truyện: Phía trong tâm hồn và phía trong thân thể của người phụ nữ.
EDWARD D. HOCHGần như ngay từ ngày cưới của họ cách đây 17 năm, William Willis đã căm ghét vợ mình, nhưng chưa một lần nào anh ta nghĩ đến chuyện giết người. Anh ta sẵn lòng ở ngoài suốt cả ngày, lái xe tới cơ quan mỗi sáng, quay trở về nhà mỗi tối, và đơn giản là bỏ ngoài tai cái giọng lải nhải đều đều của vợ.
LTS. S. Rajaratnam thuộc thế hệ những nhà văn cũ của Singapo. Ông có thời làm Bộ trưởng Ngoại giao của Singapo. Truyện ngắn của ông mang chất thơ và tính nhân bản cao. Sông Hương xin giới thiệu một trong những truyện ngắn hay của Rajaratnam.
DANIEL BOULANGERĐó là mùa thu ở Concile, thành Rome mang mọi vẻ Rome và ở đó người ta đã không còn kiếm được nơi cho thuê phòng nữa.
Corrado AlvaroThời gian như muốn chững lại. Hơi nóng vẫn còn hừng hực, bầu trời mờ mờ hơi nước, những con ve kêu rả riết, ở phía tây, chân trời quang hơn, vài cụm mây như bị một nét bút quệt xuống. Cơn mưa hẳn là ở mãi xa nên người ta bắt đầu hái nho.
GABRIEL GARCIA MARQUEZ (COLUMBIA) Ngài nghị sĩ Onesimo Sanchez trước cái chết của ngài có sáu tháng và mười một ngày để đi khi ngài tìm thấy người phụ nữ của đời ngài.
Paul William Gallico (1897-1976) là một nhà văn, phóng viên thể thao nổi tiếng của Mỹ. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim truyện, phim truyền hình, có tác phẩm đã đạt giải Oscar. Cha ông người Ý, mẹ người Áo, bản thân ông đã nhiều năm sống ở châu Âu. Là người đa tài và viết khỏe, ông có hàng chục đầu sách: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản phim truyền hình, thể thao. Những tác phẩm nổi tiếng của Gallico là: Ngỗng tuyết, Tình yêu của bảy con búp bê, Cuộc phiên lưu Poseidon.
ANTONIO TABUCCHIAntonio Tabucchi (sinh năm 1945) là một trong những nhà văn được đọc nhiều nhất và dịch nhiều nhất hiện nay của Italia, bậc thầy nổi tiếng về truyện ngắn tâm lý.
IVAN BUNHINLúc ông ta đội mũ, đi trên phố hay đứng trong toa tàu điện ngầm không thấy rõ mái tóc cắt ngắn hung hung đỏ có những sợi lóng lánh, qua vẻ tươi tỉnh của gương mặt gầy, nhẵn nhụi, thân hình cao xương xương cứng đơ trong chiếc pan- tô không thấm, có thể đoán ông không quá 40. Chỉ cặp mắt xám nhạt luôn chứa một nỗi buồn khô khốc nói lên rằng ông là một người đã nếm trải nhiều trong cuộc đời.
LTS: Anatoli Kudraves là một nhà văn Beloruxia tài năng. Phần lớn các tác phẩm của ông thể hiện cuộc sống của những người nông dân, người chủ chân chính, giàu bản sắc riêng và chân thành của chính quê hương mình. Tác giả đã dẫn dắt nhân vật của mình trải qua công việc tập thể hóa nông nghiệp, trải qua những năm tháng khốc liệt của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại và cả thời kỳ kinh tế đổ nát sau chiến tranh cho đến ngày hôm nay.
BỒ TÙNG LINHLang Mỗ quê ở Bành Thành, con nhà học thức. Ngày nhỏ đã được nghe cha nói đến các sách quý và các sách khác trong nước, lại thường được nghe cha luận bàn với các bạn bè của ông về các loại sách và các nhà thơ cổ đại.