Khúc nhạc rắn

10:59 10/09/2012

L.T.S: Narayan là nhà văn miền Nam Ấn Độ, sáng tác bằng tiếng Anh. Sinh 10/10 năm 1906 tại làng Madras (mất 13/5/2001), từng sống ở thành phố Mysore cổ kính của quê hương ông.

Nhà văn R.K. Narayan - Ảnh: wiki

Ông đã viết 13 cun tiểu thuyết, 5 tập truyện ngn, 3 cuốn chuyn thể các tác phẩm cổ điển n Độ như Mahabharata, Ramayana, 2 cuốn du ký, 2 tập khảo luận và 1 cuốn tự thuật.
Truyện ngắn dưới đây dịch từ nguyên tác trong tập truyện "Một ngày của nhà chiêm tinh".



R.K. NARAYAN


Khúc nhạc rắn


Chúng tôi bước ra khỏi phòng hòa nhạc với một tâm trạng hoàn toàn thoải mái. Chúng tôi nghĩ đây là một buổi trình diễn rất hay. Ý nghĩ này kéo dài cho đến khi chúng tôi để ý đến anh chàng Ba Hoa lẫn lộn trong đám chúng tôi. Anh ta có vẻ như vừa trong phòng tra tấn bước ra. Chúng tôi dồn mắt nhìn anh ta một cách khó chịu:

- Chúng tôi nghĩ anh là một trong những người uyên bác cho rằng nền âm nhạc của miền Nam Ấn Độ đã chết cách đây một trăm năm. Hay có khi nào đó anh giao du thân mật với tất cả những nhạc sĩ biểu diễn và những nhà soạn nhạc cổ điển của chúng ta đối với lý do duy nhất mà nhiều người như anh nghĩ là tất cả những bài hát hiện đại là ngây ngô và cuồng loạn không? Hay anh là một trong những nhà lý luận nông nổi không bao giờ nghe được một bản nhạc không có cấu trúc rõ ràng?

- Không hẳn thế đâu, người Ba Hoa trả lời - Tôi chỉ là một sinh vật tầm thường hiểu được mình muốn cái gì thôi. Tôi biết chút đỉnh về âm nhạc, có lẽ ít hơn các vị ở đây, và đó là lý do làm tôi kinh tởm khi thấy trình độ thưởng ngoạn âm nhạc của con người bị hạ thấp.

Chúng tôi thử làm mất mặt anh ta bằng cách im lặng nghe những lời nói đó và chỉ nói chuyện với nhau thôi. Nhưng anh ta cứ theo đuổi chúng tôi suốt câu chuyện gẫu trên đường đi, vì thế chúng tôi buộc lòng nghe anh ta kể.

- Nhìn tôi lúc này - người anh Ba Hoa nói - có lẽ các vị tưởng tôi chẳng có năng khiếu nghệ thuật hơn là bán phân hóa học cho những nông dân. Nhưng tôi xin thưa với các vị đã một lần tôi khát khao trở thành một nhạc sĩ và tôi gần đạt được ước muốn của mình. Chuyện này đã xảy ra cách đây nhiều năm. Lúc đó tôi sống ở Kumbam một ngôi làng nhỏ cách Malgudi tám mươi dặm. Ở đó có một ông thầy dạy nhạc. Có thể nói rằng khi ông thổi sáo, các gia súc trong làng đều nối đuôi theo ông. Có lẽ ông là một nghệ sĩ vĩ đại nhất thế kỷ, nhưng luôn luôn hài lòng với cuộc sống ẩn dật của mình. Ông chẳng bao giờ bước chân ra khỏi làng, chỉ chơi nhạc phục vụ cho ngôi đền làng và thỏa mãn một cách tuyệt đối với số lợi tức khiêm tốn thu được từ đất đai của tổ tiên để lại. Tôi giặt áo quần, quét nhà, làm việc vặt và ghi chép sổ sách thu chi cho ông. Chỉ khi nào cảm thấy thích, ông mới dạy cho học nhạc. Cá tính và bộ dạng của ông rất độc đáo, không giống ai cả. Ngay cả việc dạy dỗ, tôi chỉ cần học với ông một giờ cũng đáng giá bằng một năm dưới sự hướng dẫn của người khác. Phong cách của ông là thế đó.

Sau ba năm rèn luyện âm nhạc cho tôi, thầy tôi thấy tôi đã đạt đến một trình độ khả quan. Ông nói: "Một năm nữa con có thể xuống phố mà biểu diễn trước công chúng nếu con thích". Các vị phải biết là tôi rất thích. Tôi không muốn sống mãi trong bóng tối. Tôi muốn giàu sang và nổi tiếng. Tôi mơ tưởng đến Madras để tham gia liên hoan âm nhạc vào năm tới, và rồi cả thành phố đâu đâu người ta cũng nhắc đến tên tôi. Tôi xem cây sáo trúc của mình như một cây gậy thần sẽ mở ra cho tôi một thế giới mới.

Tôi sống trong một thảo lư ở cuối con đường. Tôi có thói quen thức khuya và tập dượt trong đêm vắng. Một đêm tôi đang đắm mình trong tấu khúc bhairavi raga(1) thì có tiếng gõ cửa. Tôi nổi cáu vì bị cắt ngang.

- Ai thế? Tôi hỏi.

- Một sadhu (2), ngài cần xin một miếng ăn.

- Vào giờ này à. Đi đi. Chớ đến quấy rầy người ta lúc nào cũng được.

- Nhưng cái đói đâu có biết thời gian.

- Cút xéo ngay. Ở đây chẳng có gì cả. Chính tôi cũng sống bằng của bố thí của thầy tôi.

- Nhưng với một sadhu, người không thể cho được một xu, hay ít nhất là một lời tử tế sao? Ngài đã đến Kashi Rameswaram... (3)

- Câm mồm, tôi hét lên, trừng mắt nhìn vào cánh cửa rồi lại chơi tiếp tấu khúc bhairavi.

Mười lăm phút sau, tiếng gõ cửa lại vang lên. Tôi mất bình tĩnh.

- Ông không có tâm hồn sao? Sao ông lại quấy rầy tôi?

- Ông chơi điêu luyện quá. Không cho tôi vào phải không? Ông có thể không bố thí cho tôi cái ăn, nhưng đừng từ chối tôi nghe ông thổi sáo.

Tôi không muốn ai có mặt trong lúc tôi đang tập dượt, và bị gián đoạn liên tục như thế này làm tôi điên tiết.

- Đừng có đứng đó mà lải nhải - Nếu ông không đi ngay, tôi sẽ mở cửa tống ông ra ngoài.

- A, toàn những lời tồi tệ. Ông không cần tống tôi đi. Tôi đi thôi. Nhưng hãy nhớ đây là ngày cuối cùng trong cuộc đời chơi sáo của ông. Ngày mai ông sẽ đổi cây sáo của ông để lấy một que củi khô vô tích sự.

Tôi nghe tiếng guốc của ông ta bước xuống tam cấp. Tôi cảm thấy khoan khoái và thổi lại chừng mười phút... Nhưng rồi tâm thần tôi dao động. Những lời từ biệt của ông ta... ông ta muốn nói điều gì? Tôi đứng lên, lấy cây đèn lồng treo trên tường rồi đi ra ngoài. Tôi đứng trên bậc tam cấp cuối cùng, giơ cao ngọn đèn, nhìn khắp lượt con đường tối đen. Tôi quay vào. Với sự hy vọng mong manh rằng ông ta có thể gọi lại một lần nữa, tôi để hé cánh cửa. Tôi treo cây đèn và ngồi xuống. Tôi nhìn vào ảnh những vị thần treo trên tường và cầu nguyện được che chở khỏi lời nguyền rủa của kẻ khất sĩ vô hình kia. Rồi sau đó tôi lại đắm mình trong suối nhạc.
 

Minh họa: PHẠM ĐẠI


Hết bản này đến bản khác tuôn ra từ cây sáo trúc bé nhỏ của tôi và làm biến đổi cả cái thảo lư cô tịch của tôi. Tôi không còn là một con người tầm thường đang thổi một ống trúc nữa. Tôi hòa nhập cùng các vị thần linh. Cây đèn treo trên tường hóa thành một vì sao sáng chói chiếu sáng một căn phòng hòa nhạc màu xanh da trời... Và tôi bước vào khúc nhạc rắn trong tấu khúc Punnaga Varali (4). Tôi thấy một con rắn đầy vẻ uy nghi: cái nọc độc trong miệng nó phảng phất một chút hào quang. Bây giờ tôi bắt gặp cái vẻ thần thánh của nó khi nó nằm trên đầu thần Shiva, vòng trong tay thần Parvathi như một vòng xuyến, đùa nghịch với thần Subramanya và là chiếc giường ngủ của thần Vishu... Toàn bộ cảnh tượng này từ con rắn truyền ra gây cho tôi một cảm giác sợ hãi và tôn kính.

Và ngay lúc đó, tôi nhìn thấy ở giữa cánh cửa với tôi không có gì khác ngoài con rắn mang bành đen kịt. Nó dựng đứng cái mồng và lắc lư như điên như dại. Tôi ngừng thổi, dụi mắt xem mình có hoàn toàn thức không. Nhưng trong giây phút khúc nhạc ngưng, con rắn quay đầu ném cái nhìn chòng chọc vào mắt tôi, rồi trườn đến. Trong đời tôi, chưa bao giờ trông thấy một con rắn mang bành đen đến thế, và dài đến thế. Bản năng sinh tồn bảo tôi: "Chơi tiếp đi! Đừng dừng". Tôi vội vàng lấy cây sáo để lên môi và thổi tiếp khúc nhạc. Con rắn, lúc này chỉ cách tôi chưa đầy ba thước, nâng một phần tư thân hình lên, với cái mồng mảnh mai hoa mỹ dựng đứng trên đầu, tròn xoe đôi mắt chăm bẳm nhìn tôi. Nó đang lắng nghe tiếng nhạc trong một tư thế bất động giống một con rắn được tạo bằng đá đen.

Trong khi tôi chơi, mắt tôi không rời khỏi nó, lòng đầy cảm kích vì tư thế uy nghiêm chững chạc của nó, và tôi phải tự nhủ: "Vị thần nào muốn chối bỏ đặc ân mang con rắn này trên đầu"... Sau khi chơi khúc nhạc này đến lần thứ ba, tôi bắt đầu bản mới. Con rắn thình lình quay đầu nhìn tôi như muốn nói: "Thứ đó là cái gì thế"? rồi rít lên một tiếng nghe rợn người và nhẹ chuyển mình. Tôi nhanh chóng thổi lại khúc nhạc rắn và nó lại đứng yên như một pho tượng.

Tôi thử thay đổi khúc nhạc một đôi lần, nhưng tôi thấy con rắn cứ cử động với vẻ đe dọa. Tôi cố gắng một cách tuyệt vọng để đứng lên và lao ra ngoài, nhưng con rắn đứng sát bên tôi hứa hẹn sẽ kết liễu đời tôi. Vì thế tôi chơi khúc nhạc này suốt đêm. Dần dần tôi cảm thấy đuối sức. Đầu tôi quay cuồng, hai má tôi đau vì phải thổi liên tục, ngực tôi hình như không còn giọt hơi thở cuối cùng. Tôi biết mình sẽ rơi vào cái chết trong một vài giây sắp tới. Nếu con rắn quấn vào người tôi rồi phun nọc độc giết tôi thì cũng chẳng có gì đáng tiếc cả. Tôi ném cây sáo xuống, đứng dậy, rồi phủ phục trước mắt nó và la lên "Ô, Naga Raja" (5), ngài là vị thần linh, ngài có thể giết tôi, nhưng tôi không thể nào thổi được nữa..."

Khi tôi mở mắt ra, con rắn đã biến mất. Ngọn đèn trên tường đã nhạt nhòa trong ánh sáng ban mai. Cây sáo của tôi nằm gần ô cửa.

Ngày hôm sau, tôi kể lại chuyện này cho thầy tôi nghe. Ông bảo:

- Con chẳng biết rằng chớ nên chơi tấu khúc punnaga varali vào ban đêm sao? Bây giờ con không thể nào biết chắc được là con sẽ không gặp lại con rắn kia nếu con chơi nhạc. Và khi nó trở lại, nó sẽ không tha cho con đâu, trừ khi con chơi lại khúc nhạc đó. Con đã chuẩn bị cho trường hợp như thế chưa?

- Không, không, ngàn lần không, tôi thốt lên.

Kỷ niệm về khúc nhạc đó đang sống dậy trong tôi. Tôi phải thổi đi thổi lại nhiều lần để kéo dài cuộc đời tôi rồi.

- Nếu thế thì hãy ném cây sáo của con và quên đi vốn liếng nhạc mà con đã học được. Con không thể thổi sáo cho một con rắn nghe. Đó là trò đùa của thần thánh. Hãy ném cây sáo trúc của con đi. Nó không còn có ích gì cho con nữa...

Tôi đã khóc khi nghĩ đến việc hy sinh này. Thầy tôi thương hại tôi và nói:

- Có lẽ mọi sự sẽ tốt đẹp như trước nếu con tìm được vị khách của con đó và xin ông ta tha thứ. Liệu con tìm trong đêm được ông ta không?

Tôi từ bỏ cây sáo của tôi. Từ hôm đó tôi luôn luôn đi tìm một kẻ khất sĩ vô hình, không tên tuổi trên thế giới này. Ngay lúc này, nhờ ơn thượng đế, tôi gặp ông ta, tôi sẽ quỳ xuống chân ông ta xin tha lỗi để được cầm lại cây sáo của tôi.

LÊ KÝ THƯƠNG dịch
(SH23/01-87)



-----------------------
(1) Bhairavi raga: một trong những tấu khúc nổi tiếng nhất trong âm nhạc cổ truyền của Ấn Độ.
(2) Sadhu: nhà tu khổ hạnh của Ấn Độ giáo.
(3) Kashi, Rameswaram: hai địa điểm hành hương.
(4) Punnaga Varali: tên một tấu khúc cổ truyền khác.
(5) Naga Raja: Vua của loài rắn.









 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HANS CHRISTIAN ANDERSON   

    Hans Christian Andersen sinh tại Odense, Đan Mạch, thuộc gia đình bình dân, cha là thợ đóng giày, mẹ là thợ giặt. Tuy gia cảnh tầm thường, cha ông lại say mê văn học, ông có cả một tủ sách văn học quý giá. Từ sau khi cha qua đời (năm Andersen 11 tuổi), cậu bé đã được thỏa thích đọc những quyển sách cha để lại.


  • George Saunders - Franz Kafka

  • Brazil, nhà văn danh tiếng Jorge Amado nói, không phải là một quốc gia mà là một lục địa. Trong phần đóng góp mới nhất của loạt nhà văn trẻ xuất sắc được tạp chí Granta giới thiệu, họ kể những câu chuyện rộng lớn và hấp dẫn của xã hội Brazil hiện đại và ai là tương lai của nó; trong những nhà văn chưa từng được dịch và giới thiệu này góp mặt có Ricardo Lísias đã xuất bản hai tiểu thuyết rất hấp dẫn người đọc.
    Xin chuyển dịch sang Việt ngữ từ bản dịch sang Anh ngữ của Daniel Hahn: “My chess teacher”.
                                  Dương Đức dịch và giới thiệu

  • Daly sinh trưởng tại thành phố Winchester, bang Indiana, Hoa Kỳ. Ông có bằng Cử nhân Văn chương của đại học Ohio Wesleyan University và bằng Bác sĩ Y khoa của đại học Indiana University. Trong 35 năm, ông là bác sĩ phẫu thuật tại Columbus, Indiana. Ông từng là một bác sĩ phẫu thuật cấp tiểu đoàn trong chiến tranh Việt Nam.

  • AMOS OZ

    Sáng sớm, khi mặt trời chưa mọc, tiếng gù của đôi chim bồ câu trong bụi cây bắt đầu trôi qua ô cửa sổ để mở.


  • ALBERTO MORAVIA

  • KATHERINE MANSFIELD (Anh)     

    Thời tiết thật tuyệt vời. Người ta sẽ không có một bữa tiệc ngoài trời hoàn hảo hơn nếu họ không tổ chức tiệc vào ngày hôm nay.

  • Shun Medoruma (sinh năm 1960) là một trong những nhà văn đương đại quan trọng nhất của Okinawa, Nhật Bản. Ông được giải Akutagawa Prize năm 1997 với truyện ngắn “Giọt nước” (Suiteki).

  • Có lẽ tác giả tâm đắc lắm với truyện này nên mới chọn để đặt tên cho cả tuyển tập. “The Persimmon Tree, and Other Stories (1943)” gồm 15 truyện ngắn, góp phần mang lại chỗ đứng vững vàng trong văn đàn nước Úc cho nhà văn nữ Marjorie Barnard (1897-1987), người có thể sáng tác nhiều thể loại khác nhau, kể cả phê bình và lịch sử.

  • MARK TWAIN  

    M. Twain (1835 - 1910) là nhà văn lớn của Mỹ, từng phải lăn lóc nhiều nghề lao động chân tay trước khi trở thành nhà văn, do đó văn của ông rất được giới lao động ưa chuộng.

  • L. TOLSTOY

    Các anh em từng nghe nói rằng: mắt đền mắt, răng đền răng; còn ta nói với các anh em rằng: đừng chống lại kẻ ác. (Phúc Âm theo Matthiew V, 38, 39).

  • VẠN CHI (Trung Quốc)

    Tôi nhớ hình như ở đây có một bến ô tô buýt. Phải, phải rồi, ngay chỗ giờ đây cô gái kia đang đứng, dưới ngọn đèn đường ảm đạm ấy. Tôi thong thả bước tới, hỏi thăm.

  • Peter Bichsel sinh tại Lucerne (Thụy Sĩ) ngày 24 tháng 3 năm 1935, là con của một người thợ thủ công. Ông là nhà giáo dạy tại một trường tiểu học cho tới năm 1968.

  • Chitra Banerjee Divakaruni sinh năm 1957 tại Calcutta, Ấn Độ. Bà học đại học tại Đại học Calcutta. Năm 1976, bà đến Mỹ học thạc sĩ và tiến sĩ, sau đó dạy văn chương tại các đại học ở đó. Bà làm thơ, viết tiểu thuyết và truyện ngắn, được trao nhiều giải thưởng văn học. Ngoài ra bà còn sáng lập tổ chức Maitri chuyên trợ giúp phụ nữ Nam Á bị xúc phạm.

  • SAKI   

    1. Saki là bút hiệu của nhà văn Hector Hugh Munro (1870 - 1916), sinh tại Miến Điện (nay là nước Myanmar) khi nước này còn là thuộc địa của Anh.

  • Kevin Klinskidorn trưởng thành ở Puget Sound - một vùng ven biển tây bắc bang Washington và hiện sống ở bờ đông tại Philadelphia. Anh đã được giải thưởng Nina Mae Kellogg của đại học Portland State về tác phẩm hư cấu và hiện đang viết tiểu thuyết đầu tay.

    Truyện ngắn dưới đây của anh vào chung khảo cuộc thi Seán Ó Faoláin do The Munster Literature Center tổ chức năm 2015.

  • NAGUIB MAHFOUZ  

    Naguib Mahfouz là nhà văn lớn của văn học Arab. Ông sinh năm 1911 tại Cairo (Aicập) và mất năm 2006 cũng tại thành phố này. Mahfouz đã viết tới 34 cuốn tiểu thuyết và hơn 350 truyện ngắn. Cuốn tiểu thuyết lớn nhất của ông là Bộ ba tiểu thuyết (The trilogy) (1956 - 1957).
    Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.

  • Pete Hamill sinh ngày 24 tháng 6 năm 1935, tại Brooklyn, New York, Hoa Kỳ. Ông là nhà văn, nhà báo. Ông đi nhiều và viết về nhiều đề tài. Ông từng phụ trách chuyên mục và biên tập cho báo New York Post và The New York Daily News.

  • Truyện này được dịch theo bản tiếng Pháp nên chọn nhan đề như trên (Je ne voulais que téléphoner, trong cuốn Douze Contes vagabonds, Nxb. Grasset, 1995) dù nó có vẻ chưa sát với nguyên bản tiếng Tây Ban Nha của tác giả (Sole Vina a Hablar por Teléfono) - Tôi chỉ đến để gọi điện thoại thôi.

  • Eugene Marcel Prevost, nhà văn và là kịch tác gia người Pháp, sinh ngày 1/5/1862 tại Paris, mất ngày 8/4/1941 tại Vianne, thuộc khu hành chính Lot- et-Garonne. Năm 1909, ông được mời vào Hàn lâm viện Pháp.