Không chỉ là chuyện của “Cụ Phạm”

08:33 09/10/2012

NGUYỄN KHẮC PHÊ

(Nhân đọc “Phạm Quỳnh, một góc nhìn” Tập 2. NXB Công an nhân dân, 2012)

Quý 3 năm 2011, khi đọc “Phạm Quỳnh, một góc nhìn” (PQMGN) tập 1, với trên 30 bài viết của nhiều tác giả có uy tín, tôi tưởng là đã đến lúc nói “lời cuối” về cụ Phạm Quỳnh (PQ), thể hiện sự công bằng của lịch sử như ý kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh sau sự cố bi thảm năm 1945 đối với gia đình PQ: “Cụ Phạm là người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại sau này…”. Thế nhưng hôm nay, tiến sĩ Nguyễn Văn Khoan lại cho công bố “PQMGN” tập 2, còn dày dặn hơn tập 1. Vì sao lại phải có sự “bổ sung” đó? Có phải vì sau khi PQMGN tập 1 ra mắt, tuy được bạn đọc quan tâm và tuy đã có khá đầy đủ những căn cứ tin cậy để “đánh giá lại” PQ, nhưng 1 năm qua, vẫn chưa có tổ chức nào có trách nhiệm tuyên bố chính thức sự “đánh giá lại” đó, nên tác giả “bổ sung” thêm tập 2 để thúc đẩy tiến trình giải quyết một “món nợ” của lịch sử đối với gia đình Cụ Phạm?

Riêng tôi, có cảm giác tác giả cho PQMGN tập 2 ra đời, nhằm mở rộng, nâng tầm vấn đề lên, chứ không chỉ để “minh oan” hay “đánh giá lại” nhân vật PQ mà tập 1 đã gần như hoàn tất được sứ mệnh đó.

Qua nội dung hơn hai chục bài viết trong MGNPQ tập 2, chúng ta thấy cuốn sách không chỉ cung cấp thêm cho bạn đọc nhiều tư liệu liên quan đến nhân vật lịch sử PQ mà điều có ý nghĩa hơn là từ trường hợp PQ, chúng ta có được nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn về một lớp người có vai trò không nhỏ trong việc tiếp nhận một nền văn hóa khác, trong sự giao lưu Đông - Tây nhằm canh tân đất nước ở một giai đoạn lịch sử cụ thể khá phức tạp của dân tộc - giai đoạn mà xã hội buộc phải thay đổi, nhưng con đường phía trước còn mù mờ, lại có nhiều ngả rẽ với những chủ thuyết đều muốn lôi kéo thêm tông đồ, khi cả nhân loại chưa đủ kinh nghiệm xương máu để nhận chân giá trị của chúng, chứ nói gì đến một vài nhân vật chỉ mới vượt thoát khỏi sự tù hãm của chế độ thuộc địa lạc hậu, hé cửa nhìn ra thế giới mênh mông đầy sóng gió bên ngoài. Nói như vậy để thấy, trong giai đoạn đó, lớp người như PQ, nếu như có nhận thức hoặc cách thức hoạt động kém hiệu quả - thậm chí là lệch lạc - cũng nên được nhìn nhận một cách độ lượng; còn nếu có, dù chỉ là một đóng góp nhỏ cho sự tiến bộ của đất nước, đã rất đáng được quý trọng.

Các bài viết khá công phu của các tác giả Dương Trung Quốc (Nam - Bắc & Đông - Tây), Vương Trí Nhàn (Vai trò của trí thức trong quá trình tiếp nhận văn hóa Phương Tây ở Việt Nam đầu thế kỷ 20), Vĩnh Hoàn (Phẩm chất Phạm Quỳnh), Nguyễn Văn Khoan (Lời tạ từ - Thư gửi Phạm Tôn)… đã “khảo sát” cuộc đời và những hoạt động của PQ trong bối cảnh đó, với cách nhìn đó, nên đã đánh giá PQ một cách công bằng, giúp bạn đọc thấy rõ tấm lòng yêu nước và những đóng góp không nhỏ của Cụ đối với nền văn hoá dân tộc, đồng thời thông cảm với những “vai trò” mà Cụ Phạm phải đóng thời đó. Quả là phải có cái nhìn “lịch sử” mới thấy được dưới một chế độ “đô hộ nhập nhằng” (chữ của nhà khoa học Pháp P.Brocheux do Nguyễn Văn Khoan dẫn lại), bên cạnh những tên mật thám độc ác lại có người Pháp để lại trên đất nước ta những sự nghiệp bất hủ như Yersin, L. Cadière…; bên cạnh những tên tay sai cung cúc phục vụ chính sách đàn áp, bóc lột đồng bào mình của thực dân Pháp, vẫn có những người như PQ, làm với Tây, nhận tiền Tây mà lại làm nên một “Nam Phong” với những giá trị không thể phủ nhận. Có thể nói, cả Nguyễn Văn Vĩnh, Trương Vĩnh Ký… cũng ở trong hoàn cảnh tương tự. “Hễ là người Việt Nam, ai cũng có lòng yêu nước, yêu nước theo cách của mình.” Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói như thế.

Có lẽ cần nói thêm, với cách nhìn lịch sử và khoa học, chúng ta cũng nên thông cảm với “cách nhìn sổ tuột của một số học giả đáng kính với đóng góp học thuật của PQ… khởi đi từ Ngô Đức Kế và còn tiếp nối với nhiều người khác, kể cả Thiếu Sơn…” mà nhà phê bình Vương Trí Nhàn đã nêu ra trong bài viết đã dẫn.

Như vậy, PQMGN tập 2, trong khi giúp bạn đọc hiểu thêm PQ, thấy rõ “cách thức” yêu nước của Cụ Phạm, đã đồng thời gợi nhắc chúng ta cần phải có một cách nhìn lịch sử và khách quan khi đánh giá những hoạt động của tầng lớp trí thức, nhất là khi cuộc đấu tranh ý thức hệ còn chi phối nhiều mặt của cuộc sống. Điều đó không chỉ cần đối với việc “đánh giá lại” Cụ Phạm mà còn với nhiều trường hợp khác, ở cả những giai đoạn về sau, như đối với các trí thức - do những điều kiện cụ thể - đã phải sống bên kia chiến tuyến trong thời kỳ 1945 - 1975… Đó cũng chính là bài học sử dụng nhân tài, bài học đại đoàn kết dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện ngay sau ngày đất nước được Độc lập từ 2/9/1945.

N.K.P
(SĐB9-12)









 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM XUÂN DŨNG    

    (Nhân đọc tập thơ “Hóa vàng đi Tường” của Phạm Nguyên Tường, Nxb. Thuận Hóa, 2021)

  • HỒ THẾ HÀ  

    Nguyễn Vỹ (1912 - 1971) là một tác giả/ hiện tượng văn chương, báo chí và văn hóa ở Việt Nam đầy ấn tượng của thời hiện đại, nhưng trước tiên, ông được biết đến với tư cách một nhà thơ từ thuở Hoài Thanh viết Thi nhân Việt Nam (1942).

  • TÔN THẤT DUNG

    Nghe tin nhà văn, nhà thơ Trần Hữu Lục qua đời, không hiểu sao trong tâm tưởng tôi dường như có ai đọc những câu ca từ trong bài Có một dòng sông đã qua đời của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn!

  • LÊ THỊ ĐỨC HẠNH

    Mộng Sơn là một trong số hiếm hoi những nhà văn nữ xuất hiện từ trước Cách mạng tháng Tám, sau này vẫn tiếp tục bền bỉ đóng góp cho nền văn học mới bằng những tác phẩm vừa phải, khiêm tốn, biểu lộ một tình cảm chân thành, một tấm lòng nhân ái.

     

  • NGUYỄN THANH TRUYỀN

    Ấn tượng của tôi về Nguyên Hào bắt đầu từ một đêm thơ gần 20 năm trước. Lần đầu tiên đọc thơ trước đám đông, dáng vẻ vừa bối rối vừa tự tin, anh diễn giải và đọc bài “Rượu thuốc”: “Ngâm ly rượu trong/ Thành ly rượu đục/ Đắng tan vào lòng/ Ngọt trong lời chúc”.

  • PHẠM XUÂN DŨNG  

    (Đọc tập sách “Bên sông Ô Lâu” của tác giả Phi Tân, Nxb. Lao Động, 2021)

  • PHẠM PHÚ PHONG   

    Nguyên Du là sinh viên khóa 5 (1981 - 1985) khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Huế (nay là Đại học Khoa học).

  • PHONG LÊ    

    Thanh Tịnh (12/12/1911 - 17/7/1988), trước hết là một nhà Thơ mới, tác giả tập thơ Hận chiến trường (1936) với hai bài Mòn mỏi Tơ trời với tơ lòng được Hoài Thanh chọn đưa vào Thi nhân Việt Nam cùng với lời bình.

  • LÊ HỒ QUANG   

    Dưới “áp lực” của tiêu đề, khi đọc Thỏa thuận, gần như ngay lập tức, trong óc tôi nảy sinh hàng loạt câu hỏi: Thỏa thuận nói về cái gì?

  • VÕ QUÊ    

    Từ trước đến nay chúng tôi chỉ được đọc và trân quý thơ văn của nhà thơ Lê Quốc Hán qua những bài viết đăng trên các tạp chí, trên mạng thông tin, báo điện tử mà chưa được trực tiếp cầm trên tay một cuốn sách nào của ông.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ    

    (Đọc “Phùng Quán & Tôi” của Xuân Đài, Nxb. Phụ nữ Việt Nam, 2020) 

  • HỒ THẾ HÀ   

    Hồng Nhu xuất phát nghiệp bút của mình bằng văn xuôi. Văn xuôi gắn bó với đời như một duyên mệnh.

  • YẾN THANH  

    Rất nhiều nhà văn thành danh hiện nay, sau những thành công trên trường văn trận bút, đột nhiên họ làm bạn đọc bất ngờ bằng cách chuyển hướng sang viết cho thiếu nhi, như trường hợp của Nguyễn Lãm Thắng, Nguyễn Đình Tú, Phong Điệp, Dương Thụy, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Đỗ Bích Thúy…

  • ĐỖ THU THỦY  

    1.
    Trường ca Ngang qua bình minh là ấn phẩm thứ ba của nhà thơ Lữ Mai, sau hai tập tản văn và ký sự: Nơi đầu sóng, Mắt trùng khơi viết về đề tài biển đảo.

  • NGƯỜI THỰC HIỆN:

    Lê Thị Mây là một cô gái cực kỳ ít nói. Nhà thơ chi thích lặng lẽ nhìn, lặng lẽ nghe, lặng lẽ suy ngẫm... Và nếu như phải nói gì trước đám đông thì đó là một "cực hình" - Kể cả đọc thơ mình - Mây vẫn như vậy.

  • NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG     

    Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ Quang Dũng (1921 - 1988).

  • LÊ NGUYỄN LƯU

    Trong nền văn học đời Đường, thơ ca có một vị trí đặc biệt, trội hơn cả phú đời Hán, từ đời Tống, khúc đời Minh...

     

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ  

    (Đọc “Miền quê thơ ấu” - Hồi ký của Thanh Tùng, Nxb. Thuận Hóa, 2020) 

  • VÕ QUÊ   

    Cố đô Huế - Dấu ấn thời gian” là công trình nghiên cứu thứ ba của nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Vĩnh do Nhà xuất bản Đại học Huế cấp giấy phép, tiếp theo 2 ấn bản “Dấu tích văn hóa thời Nguyễn” (in năm 1996 và 2 lần tái bản có bổ sung năm 1998, 2000); “Giữ hồn cho Huế” (2006).