Khói phủ cao sơn

10:23 23/06/2015

LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
                         Bút ký

Bạch Mã có mối lương duyên thuần khiết với mây, đến cái tên gọi cũng bắt nguồn từ những áng mây quanh năm quần vũ trên chóp núi.

Đường lên Bạch Mã - Ảnh: tác giả

Tích xưa kể rằng, nơi đỉnh núi cao vời vợi ấy, cảnh nguyên sơ đẹp như chốn đào nguyên khiến các vị tiên trên trời rất thích thú. Họ thường cưỡi ngựa trắng xuống núi đánh cờ, bày cuộc vui giữa non nước hữu tình. Khi các tiên ông mải mê ngồi tỉ thí, đàn ngựa mải mê tìm cỏ non nên đi xa mãi bàn cờ. Trận cờ kết thúc, các vị tiên gọi ngựa nhưng chẳng thấy đâu. Đợi ngựa lâu không được, các tiên ông đành phải tự bay về trời. Đàn ngựa từ đó vô chủ, lang thang khắp núi rừng, hóa thành những đám mây trắng quanh năm vờn núi. Những đám mây đó hệt như đàn ngựa trắng chờ chủ đón về, chờ mãi cho đến tận bây giờ. Người nghĩ ra tích này ắt phải là kẻ muốn chăn mây trên chốn tiêu sơ và tên gọi Bạch Mã (ngựa trắng) ra đời từ đó. Núi được mây ôm vào lòng, tô dáng núi đậm đà giữa nước non. Núi như mọc ra từ mây, mây khoát tên lên núi, mây núi quyện vào nhau.

Núi đặt tên theo mây không hiếm, mỗi nơi mỗi vẻ. Đứng trên Hải Vọng đài, chỉ cách một đầm nước Cầu Hai mà xứ sở đã có hai tên ngọn núi gắn với mây trời. Núi Túy Vân (mây say) hiên ngang trấn biển ở Vinh Hiền và Bạch Mã dõi vọng sự hùng vĩ hiếm có suốt cuộc đất Trung phần. Chợt nhớ đến ngọn núi thiêng khác là Yên Tử, dân gian thường bám nghĩa là núi mây tía. Nơi đây, những áng mây trôi lững lờ được ánh sáng mặt trời chiếu rọi tạo nên sắc màu rực rỡ như pháp lành tỏa diệu. Xưa, núi này còn có tên là Bạch Vân (mây trắng), mới hay tánh linh người Việt rất chuộng mây, trong mắt ắp mây, mây cư ngụ khắp nơi. Những cư dân sông nước ngàn đời bám đồng bằng, bốn bề bát ngát lúa xanh, bằng phẳng và cam chịu. Chỉ có núi - mây sừng sững một góc trời kia dìu họ thắp lên chí vá biển lấp trời, hay bước ra cơn mộng trần ai, tìm chốn an yên tu mình về nguồn cội của ẩn sĩ.

Điều ngẫu nhiên là ở Bạch Mã cũng có một ngôi chùa lấy tên Bạch Vân mới được phục dựng gần đây. Trong một lần đi khảo sát thực địa vào năm 2007, ông Huỳnh Văn Kéo, Giám đốc Vườn quốc gia Bạch Mã và sư Quảng Trí đã tìm được một bức tượng Phật và dấu tích nền chùa cổ, cho đến nay vẫn chưa xác định niên đại cụ thể ra sao nhưng chắc chắn là trước khi người Pháp lên đây khai thác nghỉ dưỡng. Một ẩn tăng nào đó đã tìm chốn thâm sơn cùng cốc để dựng am tu tập, lánh xa nhân thế rồi chìm khuất vào những áng mây trắng Bạch Mã. Chuyện chùa cổ phát tích lan nhanh trong nhân dân, được Phật tử thập phương đóng góp công đức dựng nên ngôi chùa mới lấy tên chữ là Bạch Vân Tự. Ngôi chùa nhỏ dễ tìm dọc đường lên Vọng Hải Đài, gần biệt thự Phong Lan và nhà máy nước Bạch Mã. Những tượng Phật bằng đá trầm mặc tọa lạc bên sườn núi, sau lưng là cỏ cây xanh ngát, dừng bước nơi đây tâm người bộ hành thư thái, ân hưởng chút pháp lành nơi núi cao xanh thẳm.

*

Quần sơn Bạch Mã hiện diện nơi đây hàng triệu năm trước, chứng kiến bao cuộc thăng trầm của xứ sở. Từ những người cổ đại sống cậy núi rừng, đến những cư dân Champa trên vùng đất Amaravati, cộng đồng các dân tộc thiểu số như Cơ Tu, Vân Kiều và cuối cùng là lớp cư dân Việt. Có thời kì người Champa định lập kinh đô ngay dưới chân núi Bạch Mã vì địa thế vùng Bạch Mã chân mây rất thích hợp để lập một kinh đô theo truyền thống Bàlamôn. Ba mặt giáp núi và một mặt hướng biển, phòng thủ tốt và cảng thị để đi ra bên ngoài. Nhưng rồi kinh đô của vùng Amaravati đã không thành hiện thực như Vijaya (Quy Nhơn). Rồi tiếp những cuộc mưu sinh nơi rừng thiêng nước độc của bao lớp lớp cư dân bám vào cuộc đất sinh tồn. Thân xác họ vùi chôn vì sơn lam chướng khí, cọp dữ rắn độc. Những cuộc chiến chinh cả ngàn năm vong sử lưu dấu chân băng ngàn vượt thẳm. Người Việt bám vào rừng để sống, vô tình khiến rừng phải chịu những vết thương suy kiệt. Nhưng chưa bao giờ Bạch Mã được chú ý khai thác một cách có hệ thống từ các triều đại thay nhau trị quốc. Các sử quan, học giả phong kiến cũng không chép gì nhiều về cuộc núi này, hay cắm một cột mốc đánh dấu sự hiện diện nơi đây. Người Việt không có tính phiêu lưu chinh phục để biến đây thành một nơi “đáng để sống”, hay tâm thức của cư dân nông nghiệp chỉ dừng lại ở ruộng đồng, làng nước. Hoặc giả vì sơn khê là chốn linh thiêng, chướng khí, ở vào thời điểm ấy, người ta không biết khai thác Bạch Mã vì mục đích gì ngoài những sản vật và hơn nữa, phương tiện kĩ thuật không đủ khả năng để như người Pháp làm đường lớn leo dọc sườn núi. Triều Nguyễn trong giai đoạn cầm quyền của mình, chọn Huế làm kinh đô cũng không nhắm Bạch Mã làm núi thiêng như bức bình phong thủy Ngự Bình, nơi an giấc nghìn thu của vị vua đầu triều Gia Long như núi Thiên Thọ hay là núi trấn hải, quốc tự như Túy Vân. Bạch Mã, đỉnh cao nhất, hùng vĩ nhất dường như bị bỏ trống, một khoảng lặng thâm trầm trong suốt chiều dài lịch sử.

Và rồi Bạch Mã được chú ý dưới thời Pháp thuộc qua con mắt của một chính quyền thuộc địa, tìm mọi cách bóc lột nhân dân ta, nhưng lại yêu chuộng thiên nhiên, biết cách bảo tồn thiên nhiên theo cách riêng của họ. Điều này giống như vườn bách thảo khổng lồ của người Pháp tại Gia Định (Sài Gòn) sau khi chiếm xong tỉnh này năm 1861. Họ chú ý đến những cá thể rừng quý hiếm sinh sống trong những khu rừng rậm của Bạch Mã, ở đây chính là loài Gà lôi lam mào trắng, tên khoa học là Lophura edwardsi, đã khơi dậy ý hướng bảo tồn sinh thái nơi đây vào năm 1925, lúc người Pháp cơ bản ổn định vùng đất trung phần và ào ạt khai thác các nguồn lợi thuộc địa. Chính quyền sở tại đã soạn thảo một dự án thành lập vườn quốc gia rộng 50.000ha là một diện tích khá lớn thời đó bao gồm phần rừng của Huế và Quảng Nam để đệ trình lên Bộ Thuộc địa Pháp. Đến ngày 28/07/1932, Bạch Mã được phát hiện lần đầu tiên do một kỹ sư trưởng ngành cầu đường là M.Girard và chính nhân vật này chỉ huy công trình làm đường lên khai thác Bạch Mã thành khu nghỉ dưỡng sinh thái. Độ cao tương đối với khí hậu mát mẻ của Bạch Mã rất thích hợp với thể trạng của cư dân ôn đới như người Pháp. Năm 1942 - 1943 là thời kì hoàng kim của Bạch Mã với những khu nhà, biệt thự chen chúc nhau giữa thảm rừng xanh, trong thung lũng, trên đỉnh núi, sườn đồi, cạnh con đường quanh co dốc ngược. Nhà ở đây xây đủ kiểu, phần lớn mang đậm kiến trúc Pháp, được làm bằng đá hoặc gỗ để phục vụ cho nhu cầu nghỉ dưỡng của các quan chức Pháp và Việt trong bộ máy thuộc địa thời đó. Các nhà bằng gỗ gọi là các chalet được làm từ cây gỗ trong rừng. Một quần thể 139 biệt thự, nhà ở, trong đó có 2 khách sạn Morin va Bany, nhà hàng tạp hóa Chaffanjon. Nơi đây trở thành một phố núi đầy sương trên đỉnh Bạch Mã. Và một tuyến đường ô tô nhỏ 19km được nối từ quốc lộ ngoài Cầu Hai lên gần tới đỉnh tạo điều kiện giao thông dễ dàng hơn.

Dạo quanh con đường mòn trong đêm, tôi mường tượng những căn nhà xưa kia vàng ánh đèn mờ tỏ trong màn sương. Những gia đình quây quần bên nhau chuyện trò. Tiếng đàn đâu đó vang lên cung trầm trong khuya vắng. Người ta còn nghe được tiếng cầu kinh từ một nhà thờ, bài thánh ca cất lên ấm nồng. Người ta sống dường như cách biệt với đô hội dưới kia, nên sự ăn ở cũng lắm công phu. Một người từng có gia đình sở hữu 1 chalet nơi đây là ông Thân Trọng Ninh cho biết có 3 nơi cung cấp thực phẩm cho phố núi là cửa hàng tạp hóa Chaffanion, nhà hàng Morin Frères và một nhà hàng Việt là Socoa. Thực phẩm được chuyển lên chủ yếu từ xe tải của các nhà hàng vào 9 giờ sáng hằng ngày. Phố núi còn được cung cấp thêm các loại thức ăn tươi sống tôm, cua, cá mực do người dân dưới đầm Cầu Hai - Đá Bạc mang lên. Họ phải gánh gồng cuốc bộ từ khuya và thường đi theo đoàn có người bảo vệ đánh trống khua chiêng để phòng thú dữ như gấu, cọp dọc đường. Những tháng ngày vàng son đó rồi cũng lùi vào dĩ vãng. Lịch sử sang trang mới, người Pháp bỏ cuộc ở Đông Dương, Bạch Mã chìm vào giấc ngủ của lãng quên.

139 công trình kia trở thành hoang phế, một thị trấn chết mục trên núi cao. Tất cả bỏ mặc cho nắng gió, mưa mù, cỏ dại thay nhau chôn vùi và thi thoảng những bàn tay con người lên đây bới móc tìm chút mưu sinh bằng cách triệt giải những gì có thể đổi lấy miếng cơm manh áo. Những phế tích biệt thự cổ hiện vẫn còn rải rác đó đây. Gần biệt thự Kim Giao mới xây, kiến trúc thô kệch chẳng ăn nhập gì với cảnh quan là lổn nhổn đống đổ nát của biệt thự xưa. Cái còn lại là vòm tò vò lớn, chỉ còn lại một nửa, gắn với bức tường nứt nẻ một vệt dài sâu hoắm. Hoàng hôn xuyên nắng qua ô cửa, những huy hoàng ngủ quên thức dậy trên phiến đá đổ nát nắng mưa. Chúng lăn lóc đây đó, rêu mốc đen kịt, xù xì như thứ xà bần tội nghiệp vứt bừa trên cỏ dại. Lạ kì thay ở đó mọc lên những đóa tường vi mỏng manh, tinh khiết. Thân tường vi mảnh dẻ, bò thành dây leo quấn quanh tường đá, vươn cao qua đầu đám cỏ dại khoe sắc diện thắm tươi. Tường vi kết hoa thành chùm, màu hồng nhạt, rực rỡ nở trên hoang tàn. Nghe đâu, đây là giống hoa do người Pháp mang lên trồng, mấy chục năm rồi vẫn còn bám đất nơi đây, sống lảng nhảng quanh những ngôi nhà đổ. Phế tích bừng lên một sức sống từ lụi tàn mới, sự hoài sinh từ vẻ đẹp hoang phế, bé nhỏ mong manh như tường vi, nhưng đầy mê dụ như lời ca của ánh tà dương.

Bạch Mã còn có những địa danh, chỉ nghe thôi đã thấy hấp dẫn, như “Thung lũng của những hòn đá ca hát”, “Thung lũng con rùa”, “Đường các ngọn núi”, “cầu Hướng đạo”… Tất cả đều do các thành viên của phong trào Hướng đạo Đông Dương đặt tên. “Thung lũng của những hòn đá ca hát” là một trong nhiều địa điểm cắm trại của các hướng đạo sinh khi xưa. Và biệt thự Phong Lan ở km 18 từng là trại Huấn luyện hướng đạo Đông Dương. Phong trào hướng đạo có thể kể đến công lao và sự dẫn dắt của cụ Hoàng Đạo Thúy, giáo sư Tạ Quang Bửu và đông đảo các hướng đạo sinh từ các trường trong thành phố Huế như Quốc Học, Đồng Khánh, Hàm Nghi... Phong trào hướng đạo một thời sôi động, rèn luyện ý chí, kĩ năng, tinh thần tự lập của thanh niên và gieo truyền tinh thần yêu nước mạnh mẽ. Ngày nay phong trào một thời của thanh niên Huế chỉ còn hoạt động lẻ tẻ, thỉnh thoảng chỉ có những đoàn võ sinh, các bạn trẻ ưa phiêu lưu cuốc bộ 19km từ cổng lên tới đỉnh rèn luyện ý chí và sức khỏe mà thôi.

Rồi những vườn rau xanh mơn mởn, ngập đầy các loại hoa quả xứ ôn đới Sapa, Đà Lạt như cà chua, dâu tây, cà rốt, su su, đậu Hà Lan... Tiếc là những vườn rau như thế bây giờ không còn xanh nhiều trên Bạch Mã, thỉnh thoảng điểm xuyến ở nhà Bảo An vài giàn su su, vài luống rau xanh hiếm hoi trên khu đất đối diện biệt thự Phong Lan đủ để cung cấp nhu cầu hằng ngày. Giả có một ý định nào đó khôi phục lại những vườn rau tràn đầy sức sống, hương vị, Bạch Mã có lẽ đã tạo nên một điểm nhấn mới trong lòng người thưởng ngoạn.

*

Mọi thứ dường như chìm đi cho đến cái mốc đáng ghi nhớ vào tháng 6/1962, kỹ sư Nguyễn Hữu Đính có tờ trình một dự án về việc thành lập “Quốc gia Lâm viên Bạch Mã - Hải Vân” với chính quyền Việt Nam Cộng hòa, có diện tích 78.000 ha với những luận điểm và luận cứ đầy sức thuyết phục. Tác giả kêu gọi bảo vệ gấp: “Rừng là điều kiện tất yếu để duy trì quân bình trạng thiên nhiên cho môi trường sinh trưởng của động thực vật, để giữ lại tính chất “thường trì” của địa chất và thổ nhưỡng”. Kỹ sư Nguyễn Hữu Đính còn dự trù các công tác để tổ chức quản lí lâm viên, nhân sự, kinh phí và lộ trình. Thế nhưng chiến tranh nổ ra làm gián đoạn tất cả mọi nỗ lực của một con người tận tụy với thiên nhiên.

Ngọn núi trầm mặc, yên bình ấy cuối cùng cũng bị chiến tranh sờ gáy. Người Mỹ đánh dấu đỉnh Bạch Mã là một cứ điểm quan trọng về quân sự để kiểm soát và bảo vệ tuyến đường liên vận Huế - Đà Nẵng. Tháng 08/1973, Mỹ cho đổ bộ một tiểu đoàn lính bảo an, chiếm đóng và xây dựng công sự, sân bay trực dã chiến tại cao điểm Bạch Mã. Một tháng sau, quân giải phóng mở trận tấn công chiếm đóng cao điểm Bạch Mã. Trận chiến diễn ra ác liệt, cuối cùng lực lượng bên kia bị đánh tan, buộc phải rút lui. Đơn vị bộ đội sau đó đào công sự và 2 địa đạo phòng thủ để giữ chốt. Địa đạo số 1 có tổng chiều dài 214,68m; địa đạo thứ 2 có tổng chiều dài là 45,80m và nhiều hầm trú ẩn nhỏ có thể chứa được 15 - 20 người. Ngày nay, leo lên Vọng Hải Đài vẫn còn sân bay dã chiến với trảng cỏ rộng, sim mua, lau sậy mọc um tùm. Những địa đạo lâu ngày mưa gió bị sụp nhiều đoạn, thỉnh thoảng dọc đường xuất hiện những lối vào cỏ mọc tua tủa, đá lởm chởm dưới chân. Những dấu tích buồn của quá khứ vẫn đọng lại trên mái tóc mây trắng nghìn thu của Bạch Mã, xao xuyến như một nốt trầm lạc nhịp. Chiến tranh, biến động chia ly một Bạch Mã yên bình, thanh khiết với con người, chỉ còn lại một Bạch Mã lấm sẹo và đầy bất trắc.

Mãi một thời gian sau, năm 1986, khu rừng cấm Bạch Mã - Hải Vân được thành lập với diện tích là 50.000ha. Đến ngày 15/07/1991, Bạch Mã chính thức được mang tên Vườn Quốc gia Bạch Mã, với tổng diện tích là 22.031ha. Gần đây, vào ngày 02/01/2008, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 01/QĐ -TTg về việc điều chỉnh mở rộng Vườn Quốc gia Bạch Mã có tổng diện tích là 37.487ha. Theo quy hoạch mở rộng, Vườn nằm trên địa bàn ranh giới hành chính của hai tỉnh Thừa Thiên Huế, có diện tích 34.380ha và Quảng Nam, có diện tích 3.107ha. Ngày nay, đây là một trong những khu vực bảo tồn thiên nhiên lớn của Việt Nam, là một trong những điểm du lịch sinh thái hoang sơ nhất ở miền Trung.

*

Bạch Mã là nơi có nhiều thảo mộc và cầm thú quý hiếm. Rừng ở đây còn giữ bản chất nguyên thủy. Chính núi cao đã cứu rừng vì độ dốc đứng nên khó khai thác, không bị nạn du canh du cư tàn phá. Trên những chóp núi đó, thực vật cực kì phong phú, từ tùng đến diệp loại. Đi quanh các con đường mòn trong rừng hay chỉ cuốc bộ dọc đường chính cũng đủ thấy tầng tầng lớp lớp thực vật phong phú các loài. Ví như cây kim giao, tên khoa học là Podocarpus neiifolius, được cho là có khả năng phát hiện - khử thuốc độc. Ở độ cao lí tưởng, cây kim giao sinh trưởng rất nhanh. Thứ cây có giá trị cao nên người dân đua nhau chặt trộm làm đũa. Rồi những chòm dương xỉ thụ dạng, cho ta cảm giác như đang đứng vào kỉ Jura với những kiểu dáng thực vật cổ sinh đầy hình tượng.

Đẹp nhất phải kể đến những cây hoàng đàn giả hay còn gọi là tùng Bạch Mã có dáng vẻ khẳng khiu, màu lá xanh đậm, lạnh. Loại thực vật lá kim, quanh năm xanh tốt, không mấy khi rụng lá, và đặc biệt là “nếp kiệm giản” (nước), một phẩm chất cao quý mà con người mong ước. Một bóng tùng cheo leo bên dốc núi, cành khảng khái vươn ra giữa ngàn mây. Tùng Bạch Mã phong trần cùng giá lạnh, gìn giữ cốt cách với tiết trời quanh năm lạnh lẽo nơi núi cao. Cây mạnh mẽ cắm rễ sâu vào đá sỏi, cành quẩy gánh tang bồng với nước mây, lá xanh muôn thuở, trầm ngâm thấu chuyện nghìn thu. Tùng giờ được nhân giống dọc đường lớn, những lối mòn Ngũ Hồ, xuống thác Đỗ Quyên đều thấp thoáng bóng tùng nơi bờ đá. Ngắt một lá vân vê tỏa mùi thơm thanh cao như thứ trầm xanh dễ chịu xông nơi cánh mũi. Tôi ngồi dưới cội tùng bóng đổ, hưởng chút phong lãm của cổ mộc đứng đầu cây trăm họ. Ba lô trên vai trút xuống đất, thứ hành trang đánh dấu ta chẳng thuộc về nơi này với trăm thứ của nhân sinh. Thế cuộc ngoài kia vẫn chảy không ngừng, thuộc về hay không thuộc về cũng chỉ là bèo trong ao, bèo đâu dạn dĩ để đủ như tùng, thông đứng giữa trời mà reo. Cái chí phóng lãng - không dính mắc của người xưa thật đáng mong cầu.

Lối mòn quanh co trước mặt rồi mất hút vào xa xăm của cây lá. Một người đi giữa rừng bắt gặp lối mòn tức mừng rỡ vì tìm được đường đi, lối ra. Có ai dám tách ra khỏi lối mòn để xăm xăm băng lối cùng hoang vu. K nói, “Chân lí là đất không lối mòn”. Chúng ta chưa bao giờ lắng nghe mình. Ánh sáng cùn mòn theo tạp niệm, chính mình đánh mất quyền năng thắp đuốc trước vạn sự.

Đại ngàn Bạch Mã đầy sức sống là vậy, nhưng cũng là mâm cỗ của những đám người trục lợi từ núi rừng. Có lần, chúng tôi du khảo lên Nam Đông, vào thác Trượt gần xã Hương Phú mới phát hiện ra những khoảnh rừng bị tàn phá không thương tiếc. Bạch Mã gục đau những vết sẹo lòng.

Có lần chúng tôi đi lang thang xuống Ngũ Hồ, hôm ấy trời mù mịt suốt một ngày dài. Đường xuống Ngũ Hồ thăm thẳm bậc dốc, cây lá bốn bề đặc một màu trắng sữa. Lang thang từ hồ này qua hồ khác, mỏi chân nghỉ bên bờ đá, tôi đưa tay bứt một ngọn cỏ lập lờ mặt nước, đưa lên mũi ngửi, chao ôi thơm mùi quen thuộc. Chợt nhớ lời anh bạn, ở Bạch Mã, dọc những bờ suối, loài thạch xương bồ sống rải rác đó đây. Thứ cây được người Huế cho là đã làm thơm dòng sông chảy qua kinh thành nên sông mới có tên Hương. Tìm thấy thạch xương bồ thật là một cuộc hạnh ngộ không gì bằng trên chốn núi cao thẳm này. Thạch xương bồ Bạch Mã mọc thành bụi nhỏ, nhìn xa giống như cỏ ấu, dáng đậm, mùi thanh nhã. So với thạch xương bồ các nơi, giống thạch xương bồ nơi đây dáng cây đậm hơn, lá to chắc khỏe, lá già còn cho hoa cỡ đầu ngón tay màu xanh nằm giữa thân lá. Một cuộc sống nơi núi cao, suối thác khiến sức lực nó kiên cường hơn. Bờ suối thơm nơi những bụi thạch xương bồ chen chúc nhau mọc. Loại cây này có sức sống bền bỉ, không cần nhiều đất, chỉ cần nhúng một phần rễ trong nước, rễ khỏe mạnh len lỏi vào kẽ đá giữ chân qua ngày tháng cứ thế mà sinh trưởng. Ngửi mùi thạch xương bồ quen thuộc, cảm giác giống như chúng tôi đang ở bên sông Hương, lững lờ những ngày quen thuộc.

Mỗi cỏ cây trên vùng quần sơn Bạch Mã mang hơi thở của đại ngàn. Khi nhắc đến “đại danh hoa” của núi rừng Bạch Mã phải kể đến đỗ quyên. Giống hoa này thuộc loại sơn thạch lựu, màu đỏ, nở dọc các con suối trong rừng vào dịp tết và mọc nhiều nhất tại một ngọn thác được lấy hoa để đặt tên. Trong văn hóa Đông phương, loài hoa này biểu tượng cho sự dịu dàng và đầy nữ tính. Tính cách hiền thục của người phụ nữ xưa được ví như loài hoa này. Người Pháp xem hoa đỗ quyên tượng trưng cho sự thành công và vinh quang.

Giống Đỗ Quyên Bạch Mã có màu đỏ, tượng trưng cho tình yêu thắm nồng, cháy bỏng. Cái sắc đỏ tươi tắn của Đỗ Quyên Bạch Mã như những ngọn nến cổ sơ thắp lửa trên màu xanh đại ngàn sâu kín. Màu đỏ ấy bước ra từ truyền thuyết của loài chim cùng tên, một ngày hót thống thiết, hót hao kiệt sức mình, máu rỏ xuống hóa thành. Hoa hoài sinh từ tiếng xướng ca của chim thiêng, da diết tiếng vọng thẳm dội của thái hư. Đứng trước thác trắng mây mù, tôi đau đáu dải khăn hồng điểm tô màu thác. Hoa rung rinh trong gió, gió ngân dội lời ca uyên ương ôm mộng chốn tiêu sơ. Đỗ quyên có đức năng của loài hoa nơi rừng thẳm, lay động lòng người vì vẻ hoang dại dịu dàng hiếm có. Dáng hoa hiền lành, kiệm hạnh mọc thành bụi nhỏ nơi bờ suối, rễ cần mẫn chen trong kẽ đá hút lấy dưỡng chất của non thiêng. Đỗ Quyên không kiêu sa như trà mi, vương giả như mẫu đơn, phong lãm như hoàng mai. Hoa mạnh mẽ vươn mình giữa muôn giống loài khác, trổ dải hoa làm nao lòng kẻ tha nhân. Hoa cheo leo nơi đỉnh thác cao 300m, an vị mình trên đá khô cằn, chỉ có nước là dư thừa vô kể, hùng vĩ dội xuống thung sâu. Đỗ quyên nơi đây không thể tách rời thác như rằng thể phận của hoa sinh ra là để tô thắm núi non cô tịch, gieo một nốt vui giữa cung trầm của rừng hoang liêu mù mịt khói sương. Chỉ có sương đêm im lặng nằm trên cánh hoa mới biết nỗi niềm sâu kín của thể phận bất hoàn ấy.

*

Chúng tôi từng thơ thẩn trên con đường chiều. Bóng đổ mù mịt. Mắt em thoáng buồn. Giờ tất cả mọi thứ đã bay xa, như áng mây lùa qua tóc, ướt đẫm, mịt mù một lúc rồi tan biến trong đất trời bao la…

Tôi nghĩ đến chóp núi cô đơn. Đức Phật Thích Ca là minh dẫn toàn hảo của đặc năng núi rừng. Khi phát tâm đi tìm chân lý, Đức Phật đã trải qua 11 năm “ăn rừng ở rú”, học đạo với đủ loại pháp môn nơi núi rừng đầy cao nhân. Và phút giây Đức Phật chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác huy hoàng cũng đã ghi dấu nơi cảnh hùng vĩ của núi rừng, dưới cội cây Bồ đề hương pháp. Giá được ngồi nghe bầy vượn già kể chuyện liêu trai, kể những tháng năm núi già khóc than hiu quạnh. Quần sơn Bạch Mã hiển hiện đó như nguồn trưng dẫn về sự kiến tạo điêu tuyệt của tự nhiên. Để rồi đây, khi bội thực cuộc sống phù hoa, núi cao là nơi thanh tẩy cho những tâm hồn phóng lãng. Từ đó, ý du tử cứ mãi nổi trôi mây trắng, nổi trôi trên quần sơn ru giấc nghìn năm vĩnh cửu màu xanh của hy vọng, của bình minh, của chân lý. Và một người đã đánh rơi một ý nghĩ của tự do để thức tỉnh mình vào lúc mặt trời ngự lạc trên đỉnh cao sơn, nơi đàn Bạch Mã xây tháp mây trắng hiển hiện hào quang thơm tho như thoạt kì thủy.

Bạch Mã, lập hạ, 4/2015

bút ký của Lê Vũ Trường Giang

 

L.V.T.G
(SH316/06-15)

 




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

  • LÊ KHAI           Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ.  Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.

  • HÀ KHÁNH LINH            Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ                                        Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!

  • TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.

  • NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.

  • PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước  vào đời.

  • NGUYỄN VĂN VINH                         Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.

  • TRẦN HOÀI                  Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...

  • LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.

  • NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.

  • TỐ HỮU        Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời

  • VÕ MẠNH LẬP            Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                          Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                         Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.

  • NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.

  • TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.

  • HOÀNG QUỐC HẢI                        Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.