Khoảnh khắc và vô tận trong tiểu thuyết Vĩnh Quyền

08:25 28/12/2023

LÊ THỊ HƯỜNG

Lịch lãm, nhẹ nhàng dẫu viết về vấn đề gì, đó là ấn tượng từ những trang tiểu thuyết của Vĩnh Quyền.

Ảnh: internet

Trong vô tận* là cuốn sách có thể đọc lại nhiều lần, bởi đằng sau những con chữ dồn nén, lắng, sâu là những vấn đề lớn của lịch sử, của thời đại. Truyền thống kết nối hiện đại, những trang sử xa xưa kết nối với biển đảo hôm nay, thư tịch cổ và tư liệu mới… Thực và ảo, tỉnh và mê, bụi bặm và trang nhã, chất thơ và chính luận. Nhà văn vừa đi sâu vào lịch sử, môi sinh, vừa biểu đạt thân phận con người; biến thế giới nghệ thuật tiểu thuyết thành một thế giới phẳng với những vấn đề của thời đại mang tầm phổ quát.

Đồng hiện tuổi 25

Chuyện chủ yếu được kể từ ngôi thứ nhất với nhiều cái "tôi" kể chuyện. Thời gian ngắn, chỉ vài ngày, từ khi tôi đáp chuyến bay Los Angeles - Tân Sơn Nhất để về Huế thăm người cha bị hôn mê cho đến lần thức tỉnh cuối cùng của ông. Tuy vậy, nghệ thuật hồi ức, liên tưởng khiến các mốc thời gian nới rộng, không gian mở đến vô cùng, vô tận. Tác giả chọn mốc thời gian tuổi 25 để tái hiện cả một chặng dài mấy thế hệ, mấy đời người. Câu chuyện của hôm qua (từ cha tôi và cả một dòng họ) đan xen với những câu chuyện của hôm nay (qua tôi, người con đang du học, làm luận văn đề tài “Nước Đại Nam - cường quốc Đông Á”) bện xoắn vào nhau. Trong những câu chuyện được kể ở thì hiện tại vang lên những câu chuyện từ quá khứ, và ngược lại. Những miền ký ức đồng hiện, qua dòng ý thức triền miên, những vệt, mảnh của quá khứ đan cài trong các mảng hiện thực sống động “không vận hành theo lí thuyết phổ thông”. Qua diễn ngôn của các nhân vật chấn thương, mọi câu chuyện kể đều là những mảnh vỡ ghép nối từ kí ức đẹp và buồn.

Câu chuyện của tôi và ba tôi đồng hiện song song ở tuổi 25, và qua những trang ghi chép của ba tôi cuộc đời của cố tôi, nội tôi, những người đàn ông dòng họ Tôn Thất hiện lên sinh động. Một dòng họ, đàn ông mang dòng máu lãng tử, nghĩa khí, tài hoa, phong tình và cô độc; những người phụ nữ chung quanh họ yêu kiều, thanh thoát nhưng phận mỏng, phận buồn. Nhân vật của Vĩnh Quyền đa phần là những con người bị sang chấn tinh thần, luôn đắm chìm trong vùng ký ức thương tổn. “Tổn thương trong quá khứ cứ ám theo” khiến họ nhùng nhằng trong nhiều trạng thái cảm xúc. Người ông bao nhiêu năm sống trong ám ảnh vì đã giết người/kẻ thù dẫu trong chiến tranh. Trong phần đời còn lại, người cha luôn ám ảnh về cái chết của đứa con trai đồng tính bị chính ông sỉ nhục và ruồng bỏ. Trong hồi ức về tuổi 25, trong miền nhớ của cha tôi luôn nhói lên hình ảnh cái chết của Ayumi trong trận lũ, chỉ sau khoảnh khắc “tôi thận trọng dìu cô nằm xuống sàn đất lạnh ẩm, dịu dàng nhập vào cô…”. Cái chết nhanh đến bất ngờ, còn lại ở cha tôi là trạng thái chới với, u uất, chứng mất ngủ và ác mộng. Người lính Mỹ bị cầm tù trong vùng ký ức bị tổn thương nặng nề, suốt đời bị ám ảnh về cuộc chiến tranh Việt - Mỹ, về thời trai trẻ “lấm bùn và máu”. Kể cả tôi, chàng thanh niên du học cũng bị ám ảnh không nguôi về câu chuyện tình yêu trong quá khứ. Đúng như lời triết lí của một nhân vật, “ký ức giúp con người hoàn thiện nhưng có thứ ký ức quá ngưỡng chịu đựng của một số người, trở thành nơi giam hãm”.

Cuốn tiểu thuyết dồn chứa nhiều vấn đề lớn. Ngầm ẩn trong những mảnh truyện là thông điệp về tuổi trẻ. Trong quá khứ của "tôi" có một mảnh vỡ về tuổi 18, 20, “những kẻ nổi loạn”, một thế hệ không hẳn là lạc lối nhưng có lúc “điên rồ”. Vĩnh Quyền viết kín. Tuy vậy, có thể nhìn thấy vệt ánh hiện sinh khi nhà văn khắc họa chân dung, tính cách của một kiểu dạng hippie, chẳng để làm gì chỉ để khác mọi người. Ban nhạc thời thượng The Red Rebels, xăm tay, áo thun đỏ, xe đỏ, mê tốc độ, những pha đánh đấm li kì… Rồi cơn sốt vỡ da cũng qua nhanh, quá khứ nông nổi còn lại từng mảnh đậm nhạt trong ký ức. Kẻ xuống tóc đi tu, người “lên xanh”, người làm báo để đấu tranh, phản chiến, người du học, kể cả cái chết. Họ biết sống và sống đẹp trong những ngã rẽ, khúc quanh của lịch sử, kể cả trong những hoàn cảnh đau thương. Họ luôn đặt ra những câu hỏi trĩu nặng trầm tư và mặc cảm. Có lúc chỉ là mặc cảm không làm được gì cụ thể cho đất nước, “một đứa lên đường du học khi một đứa đang lên tiếng bảo vệ ngư dân mình bị tấn công trên biển đảo của mình”. Có lúc là “…chưa nghĩ suy, chưa hiểu thấu, chưa làm gì vì tình trạng biển đảo của đất nước là có tội”. Hoặc cảm giác “xấu hổ dâng cứng ngực” khi tôi đứng trước một tủ kính trưng bày toàn sách chữ Nôm, trước tác của mấy đời gia tiên, cũng được thắp hương như một bàn thờ.

Bên cạnh “những kẻ nổi loạn” chúng tôi thời ấy còn là một thế hệ thanh niên quên mình trong lịch sử. Những nhân vật lịch sử như Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề của Việt Nam Quang phục hội, của tuổi 25 thật đẹp. Cái đẹp của sự dũng mãnh, cái đẹp của đời thường trong tình yêu. Tình yêu tình nhà nợ nước phân minh mà lãng mạn. Chân dung một thế hệ trí thức trẻ, nói như lời vua Duy Tân, là những vệt son của lịch sử. Lịch sử tái hiện từ tâm hồn, từ suy nghĩ, nhận thức và hành động của những con người tuổi 25 đầy nhiệt huyết. Họ truyền thừa dòng máu của những kẻ sĩ, những trí thức nghệ sĩ yêu đất nước theo cách của mình. Sử trong tác phẩm là những trang hào hùng được lắp ghép, được lưu giữ qua những thế hệ tiếp nối, qua con mắt của bạn bè quốc tế, và được viết bởi ngòi bút của một nhà báo, nhà nghiên cứu. Những mảnh sử trong tác phẩm khơi gợi nhiều vấn đề về căn tính dân tộc, vận mạng đất nước. Không đi sâu vào từng nhân vật lịch sử như những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ, lịch sử ẩn hiện qua những mảnh đoạn, những diễn ngôn đối thoại và độc thoại của một người kể chuyện biết nhiều, gợi, truyền tri thức và cảm xúc. Với tính chất phát hiện, Vĩnh Quyền lựa chọn “biển” như một mắt xích, một biểu tượng đặc thù của đất nước. Nằm trong những trang viết dở dang của “cha tôi”, lịch sử từ thuở khai thiên lập địa đến nay đều liên quan đến biển. Từ thuở Lạc Long Quân và Âu Cơ,… đến thế kỉ XXI (được mệnh danh là thế kỉ của đại dương) … và “vào những ngày này…”. Biển nối liền chiều dài lịch sử chống ngoại xâm, biển nối liền chữ S thành một dải. Mất biển là tiêu vong. Giành lại biển là chiến thắng. Gắn liền với biển, lịch sử toàn vẹn qua cái nhìn phát hiện và sự dẫn dắt khéo léo của nhà văn. Với tinh thần đối thoại, phản biện, nhà văn đã gợi những vấn đề nhức nhối liên quan đến biển đảo Tổ quốc. Với niềm đam mê cổ sử, Vĩnh Quyền đã viết những trang “ghi chép” về lịch sử giàu niềm tự hào và trách nhiệm.

Khoảnh khắc và vô tận

Trong vô tận là cuốn tiểu thuyết ngắn đan xen các hệ thẩm mĩ. Kết hợp nhiều thể loại với văn phong khác nhau, lúc mềm mại, lúc khô khan chính luận, khi là những con số, những sự kiện thời sự, khi là những khúc đoạn tình yêu lãng mạn… tác phẩm luôn gợi cảm xúc về cái đẹp. Cái đẹp ngời lên từ nỗi buồn, từ những dang dở hoặc những khoảnh khắc một đi không trở lại. Nhân vật của Vĩnh Quyền thường sống trong những miền ký ức dở dang. Bàn cờ với những quân cờ dang dở ghim lại một cuộc chơi. Nơi đó, hằng đêm người con trai “trên xanh” bí mật trở về, đi một quân cờ, mỗi đêm một nước cờ. “Ván cờ ma cứ thế tiếp diễn”, từng đêm, rồi bẵng đi mấy đêm mới nối lại, “rồi dở dang mãi”. Ván cờ dang dở trở thành biểu tượng chia li, vĩnh biệt. Nơi đó người cha mong ngóng con trai trở về. Nơi đó, người mẹ dùng keo đính các quân cờ trắng -đỏ đúng vị trí dở chừng trên bàn cờ, “như thể cuộc chờ đợi không có điểm dừng”. Biết bao người cha, người mẹ ở đất nước này đã chờ đợi những đứa con trai không bao giờ trở về, nhưng cái bàn thờ có bàn cờ tướng và ván cờ đặc biệt, được đặt trang trọng trong lồng kính, được thắp hương thì xưa nay hiếm. Đó còn là những trang ghi chép chưa trọn vẹn, người cha chìm vào hôn mê khi những dòng chữ còn dở dang trên màn hình laptop; là tình yêu không thành, và nỗi buồn phiền thương nhớ trút nén vào bức tượng “dáng Phật dáng người” cũng dở dang.

Trong vô tận thường có những khoảnh khắc đẹp được nhà văn chộp lại như những giây phút thăng hoa cảm xúc. Có những tình tiết thoáng qua, có những tình huống ngỡ như tác giả vô tình chạm đến, nhưng cái chạm khẽ ấy lại bao chứa nhiều ý nghĩa. Cái khoảnh khắc bay lên giữa mười lăm bong bóng bay cỡ lớn của Nhàn thật kì diệu, bởi nó chạm vào vô tận, dẫu đứa bé 12 tuổi lúc đó nhắm nghiền hai mắt, không thấy gì và cũng “không cảm nhận được cái hạnh phúc một lần trong đời bay bổng như chim”. Hay cuộc điểm quân số kì lạ và thú vị trên boong tàu (thuyền trưởng hạ giọng: Thằng Cò? Bếp trưởng chỉ tay lên giàn ăngten: Có. Con cò trắng thản nhiên tỉa lông cánh, nổi bật trên nền trời xanh ngắt). Con cò được xem như một “biên chế” đặc biệt, bởi trong lòng các chiến sĩ trên con tàu cảnh sát biển này “đều có bóng dáng những cánh cò nơi quê xa…”. Bức tranh hoa gạo ma mị, tiếng sênh phách của ca nương Bắc, màn múa kiếm như thoát xác, tình yêu “lệch pha”… Người họa sĩ vẽ và xé, xé rồi lại vẽ không biết bao nhiêu lần một bức tranh. Và như vô thức sáng tạo, sau những khát khao, dồn nén cái đẹp hiện hình trong một phút xuất thần. Bức tranh hoa gạo ra đời trong cơn mê sảng sáng tạo, trong khoảnh khắc thăng hoa vô thức. Mọi sinh khí đã dồn vào bức tranh, họa sĩ gục chết trong khoảnh khắc mãn nguyện nhất của một đời nghệ sĩ đam mê nghệ thuật đích thực: trước cửa sổ mở toang tràn ngập ánh trăng rằm thu, “hoạ sĩ phủ phục trước bức tranh cây gạo trổ bông đỏ rực”. Bức tranh “trông thô vụng bí ẩn” lại có ma lực khiến người xem rùng mình nên bị đốt thành tro. Nhưng bản tranh thật bị vất bỏ trong nhà kho bỗng chốc sáng bừng lên cái đẹp vĩnh cửu - một “vẻ đẹp diệu kì ẩn dấu chờ giờ khắc thiêng” trở thành bất tử. Đó là cuộc múa kiếm như một đoạn phim đẹp kì bí của ông tôi, cuối đời ngồi xe lăn với những hoài niệm về một thời tuổi trẻ, “tôi sửng sốt với cảnh ông điều khiến xe bằng tay trái, nhanh nhẹ tiến thoái, xoay trở trong khi tay phải múa thanh kiếm vun vút giữa cơn mưa lá vàng đêm trở gió. Hết bài kiếm, người rũ xuống như chẳng còn sức lực, hai vai nhô lên rung khẽ”. Và như một chớp mắt, “ông tôi và chiếc xe lăn đã biến mất, gió cũng thôi xao xác, chỉ còn xác lá vương vãi trên sân im ắng”. Đó là dở dang sênh phách. Không còn người chơi đàn đáy cho ca nương gõ phách hát thơ; nỗi niềm lẻ bóng cùng nỗi nhớ quê hương khiến cô Bắc “vừa hát vừa khóc, hát rồi khóc, khóc rồi hát” khiến âm thanh phương Bắc trở nên kì diệu; sênh phách “biến hóa dồn dập, lúc khoan thai, lúc đối chọi, lúc đồng điệu với giọng hát” như chứa chất bao nỗi niềm.

Trong vô tận thường có những đường biên, những độ giao hư thực khơi gợi cảm xúc. Là “giao thức khai thông tình cha con trong vô tận”, là “ngã rẽ kinh sách mù khơi”, khoảnh khắc giao cảm giữa đạo và đời. “Đó là đêm tranh chấp giữa tiếng kinh Bát nhã vọng từ ngôi chùa lưng chừng đồi thông và giọng hát lý Mười thương cất lên từ con đò bên sông đầy ánh trăng”; là tâm trạng đa phức trong mối tình mang mặc cảm Oedipe với Nhàn, trong khoảnh khắc tôi lạc vào “vòng xoáy như sông gặp biển”, kể cả sau này trong một khoảnh khắc mơ. Là một giây phút không kìm nén được của Hoàng, trong khoảnh khắc tôi mê tỉnh trên đường biên sống chết, “không chút sức đề kháng, tôi nhắm nghiền mắt bất lực, chỉ có nước mắt ứa ra, thứ khiến Hoàng giật mình khựng lại”. Hoàng sống như một hảo hớn nhưng mang trong mình nỗi dằn vặt giới tính, nỗi khổ vì làm nhục gia phong. Những cuộc thư hùng, giang hồ tuổi trẻ với Hoàng chỉ để giải tỏa, một cách chống chọi niềm đam mê chính đáng của bản thân mình. Ngột ngạt với những thành kiến từ xã hội, nhất là gia đình, anh tìm đến cái chết như một cách giải tỏa cuối cùng, để thoát khỏi cái thế giới mà anh cho rằng không dành cho mình. Hoàng tự tử vì mối tình lệch pha không được công nhận. Đã có quá nhiều tác phẩm văn học viết về đồng tính, nhưng với Vĩnh Quyền, những phân đoạn ngắn ngủi viết về cái “lệch pha” tạo mỹ cảm khác, mới. Đồng tính được viết đầy cảm xúc và day dứt nhân tình. Nó không pha dục vọng xác thịt mà chỉ là cảm giác, cảm giác về tình yêu, hòa nhập, thấu cảm. Đó là khoảnh khắc ba tôi chìm trong hôn mê vô thức, mơ thấy mình ở tuổi 25, cái khoảnh khắc ông cười với bóng mình trong gương để vô thức thấy bóng cười lại với mình. Một cơn mê mà trải dài gần hết một đời người, chỉ trong khoảnh khắc mà kéo dài dằng dặc cả mấy thập kỉ với một cõi mịt mù hồi ức. Soi gương, đối ảnh, bóng đối bóng, giấc mơ, là khoảnh khắc thần giao cách cảm, là tương giao giữa tôi với những mảnh tôi, giữa những cái tôi của năm thế hệ, tự thuật, hồi ức về dòng họ, về mình. Tiểu thuyết Vĩnh Quyền là những mảnh vỡ được lắp ghép bất chợt nên mọi chuyện cứ dở dang, dẫu có là cái chết thì cũng không phải là chấm dứt một cuộc đời. Tất cả cứ kéo dài đến trong vô tận.

Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn chọn nhan đề Trong vô tận. Chốn vô tận trong tác phẩm không hẳn là không gian, thời gian, chiều rộng, chiều dài mà còn là cái thăm thẳm của tâm linh, của hư vô. Cảm hứng vô tận dồn lại ở lời đề từ “Trong vô tận song song gặp nhau?”, mạch truyện khởi đầu từ khoảnh khắc ở “độ cao mười nghìn mét qua cửa sổ máy bay có thể nhận ra đường biên ngày đêm trên bề mặt trái đất. Bóng tối mon men tới đâu đèn đóm phát sáng tới đó, chỗ chi chít bao la chỗ rải rác, lẻ loi lấp lánh tín hiệu hiện hữu của con người”. Kí hiệu về “trong vô tận” là “hố đen vũ trụ”, là biển tối vô tận mênh mông khi máy bay ở độ cao, là “thứ ánh vàng huyền hoặc pha phối giữa bầu trời và biển cát”, là “cuộc giao hoang âm dương lẫn lộn”. Có những khoảng vô tận vỡ oà một cõi uyên nguyên, hoang sơ và kì bí. Là giếng trời không đáy, thăm thẳm vàng rỡ ánh trăng, ở đó mỗi lần trăng tỏ “tôi lại có thể trông thấy hình hài trần trụi của mình và cả lòng giếng vàng óng bên dưới”. Là thiên nhiên mang “thông điệp thời gian mãi miết trôi… để rồi bắt đầu lại từ đầu từ vòng quay vô tận”. Kể cả dòng Hương, không chỉ là một dòng sông mà là cõi hư vô, nơi dòng nước đã hòa tan những bụi tro của các kiếp con người. Là sự cô đơn thăm thẳm của dòng họ, hay cõi vô thức của người cha đối với “những lao xao bất tuyệt của thế giới bên ngoài”. Là không. Rỗng. Hư vô. Mấy đời của một dòng họ chỉ còn lưu dấu qua những cái tên trong gia phả, qua khói hương, từ đường lạnh lẽo. Không nhấn mạnh đến sự bi thảm của cái chết, nhà văn triết lí nhẹ nhàng về hư vô, về kiếp nạn con người. Triết lí Phật giáo thấp thoáng mà sâu, về khổ nạn, buông bỏ, về duyên nghiệp, vô thường.

Tiểu thuyết của Vĩnh Quyền đa thể tài, nhiều giọng điệu. Với lối cấu trúc đa tầng bậc, ghép mảnh, dòng ký ức, Vĩnh Quyền khơi sâu vào thế giới bên trong con người. Trong vô tận là sự liên kết, xâu chuỗi các mảnh ký ức có phần rời rạc, đến mức có cảm giác nhà văn không can thiệp vào quá trình hình thành văn bản. Câu chuyện cứ tự nhiên diễn ra qua diễn ngôn của những cái tôi hồi ức, trải nghiệm, ám ảnh. Lời kể lồng vào lời kể, hồi tưởng, mơ tỉnh, đối thoại trong độc thoại; quá khứ xa xen lẫn quá khứ gần. Bằng liên văn bản, ghép mảnh, liên thể loại, nhà văn đã chuyển hóa những bộn bề đời sống vào văn chương một cách tự nhiên. Vĩnh Quyền đã lục lọi, xáo trộn, lắp ghép ký ức để từ quá khứ trình hiện cái đa chiều của thời hiện đại: “Trong vô tận song song gặp nhau?”

L.T.H
(TCSH51SDB/12-2023)

-----------------------
Trong vô tận- Nxb. Trẻ, 2019. Tác phẩm nhận Giải Văn chương Đông Nam Á năm 2021; giải thưởng banăm 2019, 2020, 2021 được tổ chức trao chung vào ngày 10/8/2023. Giải Nhì tiểu thuyết năm 2016 - 2019 của Hội Nhà văn Việt Nam.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)