Khi ông chủ ngân hàng cưới... nàng thơ

11:07 09/02/2009
THÁI DOÃN HIỂUGiữa ngổn ngang những dữ kiện, con số, tiền nong, ngành Ngân hàng Việt vẫn hào hiệp tặng cho thi đàn ra một hồn thơ tinh tế: Nguyễn Ngọc Oánh.Trong thi sĩ Nguyễn Ngọc Oánh có hai con người: một trẻ và một già!

Đây là chàng trẻ Oánh:
Nguyễn Ngọc Oánh yêu và anh rất dại dột cất công đi tìm bề sâu để khám phá bản chất của nó. Nhưng anh hiểu làm sao được chiều sâu thẳm của tình yêu (?) hệt như nhà vật lý Đức Risa Hanxơ khi ông này giảng giải cho sinh viên: “Vấn đề tuổi của trái đất quá ư phức tạp. Nó cũng khó hiểu như trái tim cô gái. Ta đứng trên mặt đất nhưng không biết thật chính xác về tuổi của nó, cũng như ta tiếp xúc thường xuyên với các cô gái, nhưng đố ai hiểu rõ họ nghĩ gì về ta”. Rốt cuộc, nhà thơ chỉ tìm được cái bâng quơ “ngẩn ngơ đi tìm”, để rồi “bước hẫng lên tiếng cười”. Tâm trạng chông chênh này của Nguyễn Ngọc Oánh là trạng huống mất cân bằng của tuổi xuân, khát yêu, nhưng không thể vượt rào vì những tín điều đạo đức của người có nhân cách.
                        Ai làm cho đất lên mây
                        Để mây hôn đất đắm say giữa trời
                        Tôi - nàng cách một tiếng cười
                        Mà sao bạc mái tóc rồi vẫn xa
                                                            (Viết dưới chân Hoàng Liên Sơn)
Thực chất, tình yêu trong thơ Nguyễn Ngọc Oánh chỉ là một thứ tình bạn được nâng cấp lên mức cao sống động bởi sự chia biệt giới tính. Trước bạn đọc, nhà thơ đã phải thật thà cởi mở thanh minh rạch ròi:
                        Tôi - nàng nửa bạn, nửa yêu
                        Nửa mưa, nửa nắng, nửa chiều, nửa mai
                        Nửa đêm chợt tỉnh giấc dài
                        Quờ tay chạm ánh trăng ngoài chấn song.
                                                                        (Nửa)

Chính thứ thơ ca - mặt trời của cuộc sống này đã đem đến cho thi phẩm của Nguyễn Ngọc Oánh những bài thơ tình hay cả tứ lẫn lời.
Thơ Nguyễn Ngọc Oánh đã giúp ta khám phá sâu hơn bản chất phái đẹp. Theo anh, phụ nữ là một nửa bầu trời cấu tạo nên nửa trái đất. Họ không bao giờ khờ khạo. Họ sinh ra ở độ tuổi mấy nghìn năm trước công nguyên. Phụ nữ rõ ràng thông minh hơn nam giới vì họ biết ít hơn nhưng hiểu nhiều hơn. Các nàng thường hay lập lờ đưa vào tình bạn cái mà họ mượn tạm ở tình yêu. Trong yêu đương, biết 100 người phụ nữ thì vẫn không hiểu được ai sâu, nhưng nếu biết thật cặn kẽ một phun nữ thì sẽ hiểu được cả trăm người. Ở người phụ nữ, nhan sắc quan trọng hơn trí thông minh, bởi cánh đàn ông ưa nhìn hơn là thích suy nghĩ. Còn các quý bà thì rất thích được khen tặng dẫu nhan sắc không được mặn mòi cho lắm, vì vậy các nàng hay bị đàn ông tìm mọi cách làm hại.

Ở đời, có ba thứ làm lòng người mát dịu hẳn lại, quên hết mọi tục lụy phiền toái là: nước, hoa và sắc đẹp phụ nữ. Dường như nơi nào có người đẹp thì nơi đó có tiếng thở dài của đàn ông. Nguyễn Ngọc Oánh thuộc dạng người thích phiêu lưu tình ái. Trong trời đất không có thứ gì phiêu lưu nguy hiểm cho bằng yêu đương. Anh thích thú say mê mạo hiểm dấn thân vào lãnh địa này. Nguyễn Ngọc Oánh giấu gì cũng được trừ khi yêu. Anh thích biểu dương, làm dáng trước mỹ nhân và âm thầm sẵn sàng chịu thua thiệt trong bóng tối. Khi thần yêu xâm chiếm, ngọn đèn tình của thi sĩ chỉ còn cháy sáng một bên y như thể không yêu là không còn được sống “cuộc đời anh khởi sự tự em đây” (Aragông). Nguyễn Ngọc Oánh đã để lại trong thơ một trạng huống chống chếnh say của một bên. Cách tạo tứ quả là duyên dáng tội nghiệp. Phạm Tiến Duật có lý khi anh gọi Nguyễn Ngọc Oánh là người làm thơ “cả nghĩ”, Bằng Việt trầm trồ “Tài hoa và phóng túng”. Tôi thêm: “đa tình” nữa! Nguyễn Ngọc Oánh thuộc nòi tình. Cặp mắt thi sĩ của anh hễ liếc vào chỗ nào thì chỗ đó lung linh lên, chới với.

Người nào không có được một ý trung nhân để mà say thì bất cứ ở đâu người đó vẫn là kẻ cô độc vật vờ như cái bóng dẫu sống chen vai thích cánh giữa mọi người. Không được yêu thời trai trẻ, không được thỏa mãn chí tang bồng thời oanh liệt, Nguyễn Ngọc Oánh yêu bù bằng cách đi tìm người đẹp để yêu - yêu trong mộng tưởng. Đố ai cấm được nào!
Cuộc đời là bông hoa, tình yêu là mật hoa. Thiếu ăn thể xác ốm o, thiếu yêu linh hồn cũng rã rời vật vã. Người Pháp bảo: ”Thiếu yêu như thiếu nắng”. Cuộc sống thiếu tình yêu thì không thể gọi là sống mà chỉ là tồn tại. Đây là những giây phút ngất ngây thần tiên nơi trần thế của danh sĩ với giai nhân. Chính tuổi già không thể gìn giữ Nguyễn Ngọc Oánh thoát khỏi vòng ái ân nhưng tình yêu đã bảo vệ thắp lửa cho thi nhân thoát ra khỏi tuổi già. Tình yêu quả là không có giới hạn, chừng nào trái tim Nguyễn Ngọc Oánh còn đập thì anh còn yêu. Nó chứa vẻ đẹp thanh cao, trong sáng, sang trọng mang lý tưởng thẩm mỹ kỳ lạ lung linh như bảy sắc cầu vồng ảo giác. Khi yêu thật sự người ta mới thực sự được sống làm người. Càng tiến sâu vào tình yêu, linh hồn con người càng trở nên bất tử.
           
Và, còn đây là ông lão Oánh:
                        Tháng năm xanh ai đốt
                        Tàn tro bay trắng đầu
                        Về quê thăm bạn cũ
                        Mây bồng bềnh mắt nhau
                                                            (Thăm bạn)

Thăm bạn là một bài tứ tuyệt già giặn. Nhà thơ có tài lấy một sợi tóc từ xanh hóa bạc mà gói được cái ngắn ngủi phù du bi thương của cả một kiếp người!
Hai ông bạn cố trí thuở chăn trâu cắt cỏ, đặt lờ thả ống trúm ngày đi tóc hãy còn xanh, sau bao năm xa cách nổi chìm, giờ gặp lại nhau nơi cố hương trong cảnh quan dân lệ cách, mái đầu bạc xát mái đầu bạc, tóc hai người bạn đã như mây trắng xóa soi vào mắt nhau bồng bềnh, rưng rưng, cảm thương dâu bể đến nghẹn lời! Tứ thơ hợp mà mở, kiệm lời và vang, mộc mà sâu thẳm.
                        Về quê thăm bạn cũ
                        Mây bồng bềnh mắt nhau.
Xao động bâng khuâng trước lẽ biến dịch của trời đất và kiếp người, bài thơ đã đánh thức dậy bao kỷ niệm tươi nguyên ấm nồng trong thời niên thiếu xa vời yêu dấu tận làng quê. Mái tóc bạc quả là một chứng tích sống động, là “vòng hoa danh dự”(Kinh Thánh), là văn khố hùng hồn của quá khứ.

Đã từng đi công cán khắp năm châu bốn biển, sành sỏi với đời, Nguyễn Ngọc Oánh đã đúc rút được khá nhiều những châm ngôn lịch lãm bằng thơ: “Nước mắt tuôn trong veo- Hỏi rằng nguồn có sạch?;”Sao nỡ đập vỡ kính- Để nhận về muôn gươm!”;”Dẫu là đỡ kịp hoa rơi-Thì làn hương vẫn chơi vơi cuối cành”; ”Hoa rơi trên đất vẫn hoa - Hoa thơm lạc tận xó nhà vẫn thơm”; “Núi cao không phải nhiều lời - Nụ cười chẳng phải phiên dịch”; “Người qua biên giới trình hộ chiếu - Gió qua biên giới mây chào mời”; “Số trúng - người đời nâng niu / Vé trật - hẩm hiu trắng hè” (Giao cảm không màu); “Đầu nguồn nước mặn tiếng chim - Cuối sông nước mặn nỗi niềm phù sa” (Tản mạn nước)... Không phải cho là mất, chính cho là được. Trí tuệ giàu lên nhờ cái nó nhận vào, con tim giàu lên nhờ cái nó cho đi, Nguyễn Ngọc Oánh đã thấm nhuần được giáo lý của nhà Phật:
                        Trước bàn tay ngửa ra
                        Thấy mình thêm nghèo khó
                        Trao món tiền nho nhỏ
                        Thấy mình vừa giàu thêm

(Trước bàn tay)

Anh lấy lời một nạn nhân chiến tranh, tố cáo chiến tranh hủy diệt bằng chất độc màu da cam “Tru di tam tộc - ba lần chém / Đầu độc một đời - giết nối đời” (Kể làm chi). Anh cảm hiểu đời sống và tâm trạng lá rụng về cội của người xa xứ “Ông cõng bà, dẫu là nắm tro, mà dường rất nặng - đôi mắt đục mờ dõi cuối trời xa” (Nơi xa xứ) rước nắm tro vợ về cố hương để được nằm cạnh bên mẹ cha.  Anh suy nghĩ sâu về thân phận con người trong chiến tranh trước bức tường lính Mỹ chết trận ở Việt Nam trên đất Hoa Kỳ. Anh để mắt bận lòng đến những em nhỏ bới rác “Phận người như lá đài bi - Mưa tơi tả dập cớ chi còn vùi”...

Nguyễn Ngọc Oánh viết về cha và mẹ mình với nhiều ân tình ruột thịt. Cha anh là một ngư dân “Lọt lòng đã lấm cát - Tiếng sóng thay lời ru - Biết bơi trước biết đứng - Tanh nồng những giấc mơ” (Cha và biển), người cha mà đời sống lam lũ đến mức “Nụ cười luôn đi vắng - Nhọc nhằn tới buông neo” (Cha và biển). Mẹ anh là một người phụ nữ Việt hiền đức, đảm đang, trung hậu. Ngày mẹ mất, tiễn mẹ ra đồng an nghỉ, Nguyễn Ngọc Oánh thấm thía tổng kết cuộc đời cơ cực lam lũ của Người Mẹ trong những nét phổ quát khắc chạm:
                        Con nhìn vào đâu cũng hình bóng mẹ
                        Liêu xiêu gánh rạ lội ngược cơn giông
                        Tất bật gánh củi lún cả chiều đông
                        Đời mẹ như đòn gánh không mấu
                        Vận rủi đeo bám, rơi tuột vận may
                        Một đời bán lưng bới tìm hạt gạo
                        Một đời trốn hoài vẫn trong cơn mưa
                        Áo mới một đời vẫn là áo cưới
                        Tên gọi một đời vẫn là tên con
                                                            (Gió đưa cây cải về trời...)
Trong đời làm thơ, anh viết cho mẹ sáu bài. Bài nào cũng hay, mỗi bài mỗi vẻ, tỏ rõ anh là con người hiếu đễ luôn yêu kính đấng sinh thành.
Nguyễn Ngọc Oánh dành cho người vợ tao khang của mình những lời lúa khoai mộc mạc đậm đà nghĩa tình:
                        Vết nhăn trên trán rạn nhiều
                        Là bao vất vả sớm chiều trên nương
                        Chân chim đuôi mắt mờ sương
                        Là khi con ốm chiếu giường rỗng tênh
                        Vết hằn khóe miệng nổi nênh
                        Là khi gạo củi một mình kiếm mua
                        Hay hờn hay giận hay đùa
                        Là ngần ấy vị ngọt chua đã từng
                                                            (Mặn muối gừng cay)
...

Thơ Nguyễn Ngọc Oánh nhìn chung qua các tập là thứ thơ đều đều monoton, không có điệp khúc cao trào. Hãy coi chừng: đi trên đại lộ dài hun hút mà hai bên đường phố xá, nhà cửa chỉ đúc toàn một kiểu thì còn gì chán mắt bằng. Những biến tấu riêng cho mỗi bài sẽ giúp anh khắc phục được sự đơn điệu khi sử dụng thể lục bát, thơ năm chữ, bảy chữ truyền thống, kể cả chủ đề tình yêu quá quen thuộc với tác giả để có được cái riêng khó lẫn thơ người.

Ngân hàng là nghề, thơ là nghiệp. Nguyễn Ngọc Oánh là người thăng tiến, hanh thông, đạt vận cả nghề lẫn nghiệp. Nghề để nuôi thân, nghiệp để nuôi hồn. Đã mắc vào nghiệp dĩ này rồi, anh là người có thực tài thơ. Thật kỳ diệu là nhà kinh tế học này - người đã góp phần giữ cho đồng tiền khỏi mất giá lại có thể đi đến đâu là hòa lòng mình với vạn vật, trẻ thơ và già giặn trong thi ca đến thế.
Nguyễn Ngọc Oánh đã tự bạch: “Tôi làm nghề ngân hàng, một nghề đòi hỏi phải nhạy cảm, dám quyết đoán và giàu mơ ước... điều này gần với thơ. Hàng ngày sống với những con số, những tư duy chính xác, có bản lĩnh trong quản lý và kinh doanh, càng gần đến thơ... Thơ như của nhặt được, nhiều khi tự dưng mà có. Nàng thơ kiêu sa thường đến lúc nghỉ ngơi. Vì thế, dù có bận đến đâu tôi vẫn có thể sống với nàng, miễn là vẫn rung động vì nàng:
                        Việc công không láng cháng
                        Tản mạn chút mộng mơ
                        Bạc tiền như gió thoảng
                        Còn lại một túi thơ

Người xưa đặt vấn đề khá nặng về chức năng của thơ ca: Trang Tử viết “Thi dĩ đạo chí” (Thơ lấy đạo để nói lên ý chí); Tuân Tử phán: “Thi ngôn dĩ kỳ chí dã” (Thơ để nói chí mình) dĩ nhiên rồi, nhưng khi Bạch Cư Dị truyền dạy: “Thơ bổ sát thời chính” (Thơ giúp xem xét việc chính sự); Trần Tử Ngang còn thêm “Thi dĩ bổ quốc” (Thơ lấy nghĩa giúp nước) thì điều đó mới thật là trọng đại. Thơ của Nguyễn Ngọc Oánh là thứ thơ “Nhặt được của một cõi lòng biết hát và biết đau”. Thi pháp của anh đã chín, vững vàng. Điều đáng lưu ý là Nguyễn Ngọc Oánh đã và đang cho thơ bắt rễ sâu vào thực thể xã hội để hút lấy tinh chất của Đời. Muốn làm một nhà thơ lớn hay bé còn tùy thuộc căn bản ở vấn đề xã hội mà nhà thơ phản ánh lớn hay bé. Các nhà thơ không nên chỉ chăm chút tỉa tót cho gương mặt mình thật mỹ miều mà lờ đi những vấn đề nóng bỏng, then chốt của thời cuộc. Công chúng bạn đọc sẽ quay lưng lại với thơ chừng nào thơ không quan tâm đến số phận của nhân dân và đất nước. Trần Nhuận Minh với tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ đã tái bản đến lần thứ 12 là tấm gương tiêu biểu đi tiên phong về ý tưởng này.

Thơ - với Nguyễn Ngọc Oánh tất cả đang phía trước. Anh hãy vững tin vào điều đó. Hơn mười bốn năm qua, chúng tôi đã mở lòng ra đón đọc từng bài một của người đăng tải trên các báo, cùng 6 tập thơ chính đã xuất bản với một cảm tình nồng thắm.
Chúng tôi không chúc anh Oánh làm được nhiều thơ, in ít vậy thôi, nhưng là thứ trầm tích. Cứ theo hướng ấy, anh có thể ngồi vững giữa chiếu thơ.
T.D.H

(nguồn: TCSH số 192 - 02 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNĐề tài và chủ đề là hai trạng thái cơ bản nhất, bao dung hết thảy làm nên cấu trúc tổng thể tác phẩm tiểu thuyết. Hai trạng thái đó trong liên kết tương tác gây dẫn nên tất cả những yếu tố ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Chúng còn đồng thời gây dẫn nên những yếu tố ý nghĩa liên quan nảy sinh trong tư duy tiếp nhận ngoài ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Nhưng dẫu có như thế, chỉ có thể hình dung cho đúng đắn được đề tài, chủ đề theo định hướng duy nhất thấy chúng trong cấu trúc nội bộ tổng thể tác phẩm tiểu thuyết.

  • NGUYỄN HỒNG DŨNGQuá trình “hiện đại hoá” văn học Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 diễn ra dưới sự tác động trực tiếp của văn học phương Tây. Gần một thế kỷ nay, khi nghiên cứu những tác động từ bên ngoài vào Việt Nam giai đoạn này các nhà ngữ văn chỉ chủ yếu nhấn mạnh đến ảnh hưởng của văn học Pháp. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến ảnh hưởng của nhà thơ Mỹ Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử, một đỉnh cao của phong trào “thơ mới”.

  • PHẠM PHÚ PHONG            Tiểu thuyết, đó là một trong những sáng tạo kỳ diệu của con người, đó là một đồ dùng, một vũ khí của con người để tìm hiểu, chinh phục dần thế giới và để tìm hiểu nhau và sống với nhau.                                                                                       Nguyễn Đình Thi

  • PHONG LÊ(Trích - Nhìn từ các mục tiêu của công việc “viết”)

  • NGÔ TỰ LẬPTrong thời gian làm luận án ở École Normale Supérieure de Fontenay/ Saint Cloud , tôi được nghe một câu chuyện thú vị. Trong nhà giam nọ, đám tù khổ sai, sau mỗi ngày lao động như trâu ngựa dưới đòn roi của cai ngục, chỉ có một thú tiêu khiển là nghe một người trong bọn họ kể chuyện tiếu lâm.

  • HỒ THẾ HÀTrần Vàng Sao là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ anh là tiếng nói giàu nhiệt huyết, xuất phát từ đáy lòng, hướng đến mọi người bằng giọng điệu giãi bày, tâm tình, chia sẻ. Anh sáng tác không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm của anh để lại dấu ấn thi pháp độc đáo, đặc biệt ở việc xây dựng tứ thơ và kiến trúc bài thơ, ở hình ảnh và sức liên tưởng bất ngờ.

  • NGUYỄN HUỆ CHI     Trần Thanh Mại (1908-1965) là một nhà văn xứ Huế, một tên tuổi trong giới nghiên cứu, phê bình và sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám. Những cuốn sách ông viết rải rác trong vòng 30 năm như Tuy Lý vương, Hàn Mạc Tử, Trông giòng sông Vị, Tú Xương con người và nhà thơ... đã từng gây được ấn tượng lúc mới ra đời và đến nay vẫn còn nhiều phần giá trị. Những phát hiện của ông về Hồ Xuân Hương, Miên Thẩm đã từng gây xôn xao một thời mà sự tiếp nối của người sau cũng chưa thể nói là đã vượt qua.

  • ĐẶNG TIẾNTừ điển Nghệ Thuật Hát Bội Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Lộc chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, ấn hành năm 1998, gồm non 700 trang khổ lớn 15x23cm, in đẹp, bìa cứng tổng hợp đầy đủ kiến thức về ngành ca kịch hát bội, còn gọi là hát bộ, hay tuồng, hay tuồng cổ.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1989, báo Văn nghệ tổ chức cuộc thi thơ kéo dài trong 2 năm, tôi có gửi 5 bài thơ dự thi. Thơ gửi đi rồi, chưa mong được giải, chỉ mong được in báo Văn nghệ một vài bài vì trước đó tôi cũng đã nhiều lần gửi báo Văn nghệ nhưng chỉ được in một bài thơ “Giọng Nghệ”.

  • TRẦN THÁI HỌC(Nhân đọc Sông Hương phê bình và đối thoại - Nxb văn hoá thông tin - 2003)

  • MAI BÁ ẤNNgoài sáng tác, hơn mười năm trở lại đây, Thanh Thảo còn xuất hiện với tư cách là một người viết tiểu luận - phê bình được bạn đọc rất chú ý bởi giọng văn sắc sảo với những phát hiện độc đáo, mới mẻ. Nhìn chung, phong cách viết tiểu luận-phê bình của Thanh Thảo khá nhất quán nhằm mục đích tìm ra cái hay cái độc đáo của tác phẩm văn học mà không ồn ào tranh luận, không nặng nề về lý thuyết nhưng có độ bền về tính triết lý.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNPhê bình văn học là một hình thái vận động của đời sống văn hóa văn học. Nó không phải là một thể loại văn học. Nó gắn bó huyết mạch tất yếu với vận động sáng tạo - hưởng thụ văn học.

  • HƯƠNG GIANG - PHẠM PHÚ PHONGLịch sử nói chung phán xét những gì đã qua, nhưng lịch sử nghệ thuật thì  phán xét những gì còn lại. (Thái Bá Vân)

  • VÕ TẤN CƯỜNGCon đường của thi ca và cái nhìn của nhà thơ thời hiện đại đang hướng tới tầm cao mới và cả chiều sâu thẳm bí ẩn của vô ngã ẩn khuất dưới bao biến động dữ dội của những thể chế chính trị, giáo lý và các phát minh khoa học kỹ thuật.

  • PHONG ĐIỆPXã hội hoá giải thưởng - và chuyện kiếm tiền “nuôi thơ” thời bão giá

  • CHÂU MINH HÙNGLối viết chỉ là Tự do trong một khoảnh khắc. Nhưng đó là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất của Lịch sử, bởi Lịch sử luôn luôn và trước hết là một lựa chọn và những giới hạn của lựa chọn ấy.                                      (R. Barthes, Độ không của lối viết)

  • TRẦN THIỆN KHANHTích nhân/  dĩ thừa/  hoàng hạc khứThử địa/  không dư/  Hoàng Hạc lâuHoàng hạc/ nhất khứ/  bất phục phảnBạch vân/ thiên tải/ không du du…

  • PHẠM THỊ THÚY VINHThơ Lâm Thị Mỹ Dạ rất giàu hình ảnh. Thế giới hình ảnh trong thơ chị vừa đậm sắc màu hiện thực, ngồn ngộn hơi thở cuộc sống vừa mang tính biểu tượng cao. Điều đó đã thể hiện tài năng và sự khéo léo của nhà thơ, nhằm làm cho những bài thơ của mình không chỉ dừng lại ở những lời thuyết lí khô khan, trừu tượng. Thế giời hình ảnh bao giờ cũng gợi ra trong trí tưởng tượng của người đọc nhiều liên tưởng bất ngờ và thú vị, làm cho lời thơ thêm mượt mà, trong sáng.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   (Tiếp Sông Hương số 11-2008)Bản thể con người chỉ cấu trúc bằng cảm giác và những gì là biến tướng khả dĩ của cảm giác mà không từ bỏ cấu trúc thiên định bao gồm kết cấu thực và kết cấu ảo của cảm giác. Nếu hình dung kết cấu thực là trạng thái mô phỏng thế giới, nghĩa là cái quan hệ hấp dẫn giữa xung động thần kinh não bộ con người với xung động tiếp nhận thế giới, thì chúng ta hình dung được kết cấu ảo chỉ là sản phẩm thuần tuý do xung động nội tại của thần kinh não bộ con người.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.