Khi khát vọng cá nhân của cái tôi trữ tình được đánh thức

10:27 01/09/2009
LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.

Khát vọng dân chủ là một phạm trù lịch sử, phát sinh và tồn tại khi trong xã hội loài người có sự mất dân chủ. Đối với văn học, đặc biệt đối với sáng tác thơ ca, dân chủ là điều kiện làm nảy nở những sáng tạo mang đậm màu sắc của chủ thể, là những sản phẩm rất riêng tư, rất độc đáo, không lặp lại, chỉ là đơn nhất. Nói khác đi, dân chủ sẽ giúp nhà thơ tìm ra tiếng nói riêng của mình trong sáng tạo. Mà văn học, không có gì khác ngoài tiếng nói riêng của mỗi người trong vô vàn những tiếng nói khác. Bởi vì, bổn phận của nhà thơ là buộc phải thêm vào kho tàng văn hoá nhân loại một điều gì đó không có sẵn, không lặp lại. Tuốcghêniép nói: “Cái quan trọng của tài năng văn học là tiếng nói riêng của mình. Đó chính là đặc điểm để phân biệt chủ yếu một tài năng độc đáo”.

Câu hỏi “ta là ai?” ngày trước do thời cuộc và do những nhu cầu xã hội bức thiết lúc ấy quy định, nên nhà thơ thông minh của chúng ta buộc phải thừa nhận đó là “ngọn gió siêu hình”. Nhưng rõ ràng, những năm tháng này, khi cá nhân của mỗi người đang ngày càng được tôn trọng, tôn vinh bởi vì như K.Mác nói, mỗi cá nhân phát triển là tiền đề cho xã hội phát triển, thì “ngọn gió siêu hình” năm nào tưởng là chân lý, hoá ra chưa phải. Đúng là chân lý cũng có sự vận động, biến đổi. Trong xã hội, mọi vấn đề của từng cá nhân, từng cá thể đang được thức tỉnh và tôn trọng, trong thơ của chúng ta hôm nay, nhà thơ từ xưa vốn được mệnh danh là “tâm hồn” của xã hội, cũng đang từng bước khám phá con người cá nhân của mình trong đời sống và con người có cá tính, có tính cách, đặc biệt là có cá tính, tính cách trong sáng tạo đang từng bước được xem là những giá trị.

Đó là sự khẳng định cái “tôi” trong văn học, thơ ca. Nếu ngày trước Hoài Thanh nói về cái tôi của thơ mới là “càng đi sâu càng thấy lạnh”. Nếu giai đoạn chống Pháp và chống Mĩ cái tôi hoà vào sức mạnh của cái “ta”, cái chung của dân tộc, thời đại... và cái riêng tư được xem là những “ngọn gió siêu hình” thì hôm nay cái tôi trở lại với đúng nghĩa của nó, thường nhật và giản dị, của chính mình, do mình chịu trách nhiệm, không vay mượn, không che đậy, dám công khai thừa nhận cả những mặt tối, mặt che khuất, mặt chưa hoàn thiện của mình bên cạnh những phẩm chất khác. Điều đó thật quan trọng, nó xoá sổ những thương vay khóc mướn, những vui buồn giả tạo, dễ dãi. Hãy nghe các nhà thơ tâm sự: “Mà sao tôi chẳng là tôi/Khi hèn mọn đánh rơi mình vào quên lãng” (Ngô Minh), “Như tôi mang dấu ruộng, dấu vườn” (Nguyễn Duy), “Nói với bóng mình trên vách” (Hoàng Phủ Ngọc Tường)  “Tôi nhìn thấy tôi” (Nguyễn Khắc Thạch) “Tôi đi tìm mặt” của (Hoàng Hưng)” Tôi vẫn thường hay lẫn với mồ hôi/ Tôi ấy mà một chiếc cốc vô danh” “Tôi hay héo như nước/Tôi hay buồn như cây” (Hữu Thỉnh)... Làm sao có thể tìm thấy những lời như vậy trong thơ chống Pháp và chống Mĩ.

Chế Lan Viên thừa nhận đi tìm cá nhân mình là “ngọn gió siêu hình”, vậy mà sau bao nhiêu năm, ông vẫn không thấy yên ổn, vẫn thấy đó là một cách nói có tính lịch sử, cho nên cuối đời ông vẫn tự vấn: “Hoa lư đâu, Hoa lư đâu, Hồn ta ở đâu?” Có phải đối với nhà thơ cái “Hồn ta” là cốt tử của một con người, của mọi câu chữ. Chính vì vậy, ông đã khẳng định: “Xưa tôi hát mà bây giờ tôi tập nói. Chỉ nói thôi mới hết được lời”.

Khi đã xác định cái tôi cá thể là hết sức quan trọng đối với sáng tạo, vậy thì tính trung thực của biểu hiện (chứ không phải miêu tả) cái tôi trữ tình trong thơ là tiền đề tạo ra sự độc đáo, riêng biệt cùng ngòi bút. Sự trung thực có ở trong sự thừa nhận rất giản dị tự biểu hiện mình của Phùng Khắc Bắc:

Ký hiệu đời tôi là một chấm xanh xanh ngắt
Ký hiệu thơ tôi là sự minh bạch trong rắc rối đến không cùng
Thế mới là tôi
Thế mới là đời
Thế mới là thơ
Tất cả hoà nhập như ánh sáng trộn cùng bụi.

Đây là sự trung thực vì cảm thấy sự khác lạ, sự thay đổi của mình, trong tâm hồn mình:
Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế
Chỉ em là khác với em xưa
Hoặc:
Gọi ngàn lần tên anh vẫn là không
Chỉ lá rụng dạt dào trên mái phố.
Hoặc là một sự lo lắng từ mơ hồ đến hiện hữu:
Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
Ai biết tình anh có đổi thay?

                                    (Xuân Quỳnh)

Khi đã đứng vững trên cái tôi cá nhân thì tất cả những gì là của con người, những tình cảm sâu sắc nhất, kín đáo nhất, huyền bí nhất và kể cả những lo lắng thường nhật, những uẩn khúc rắc rối, đều không xa lạ với sự sáng tạo:
Em chết trong nỗi buồn
Chết như từng giọt sương
Rơi không thành tiếng
                        (Lâm Thị Mỹ Dạ)

Trần Nhuận Minh viết:
Hư ảo hỡi, giữa vô cùng còn mất
Ta là ai? thăm thẳm có ta không?

Vũ Quần Phương ngậm ngùi, thấm buồn:
Năm tháng qua đi không trở lại
Dấu vết thời gian vốn ngậm ngùi.

Và Thu Bồn không giấu sự đau xót của mình:
Tạm biệt Huế, với em là vĩnh biệt
Hải Vân ơi! Xin người đừng tắt ngọn sao khuya
Tạm biệt nhé, với chiếc hồn thầm lặng
Anh trở về hoá đá phía bên kia.

Suy ngẫm về hạnh phúc và bất hạnh, đau khổ, về thời cuộc, được thua, thành bại, mất còn, sự hữu hạn của con người và sự vô hạn của thời gian... đã làm giọng thơ hôm nay buồn hơn, thật hơn, lắng đọng hơn, giàu suy tưởng và vì vậy mang nhiều ý nghĩa triết lý nhân sinh hơn. Đó chính là điểm cần của thơ Việt Nam hôm nay, vì chỉ có như thế mới cần đến nhà thơ, nếu chúng ta thừa nhận, đến với thơ là để tìm một lời cảm thông sâu sắc nhất, khi những cảnh ngộ, những tâm trạng đang cần được cảm thông, giải toả của mỗi một người.

Trên hướng đi sâu vào cái tôi cá nhân này, dần dần những nhà thơ lớp trước quen với “những thập kỷ hát ca, những thế kỷ anh hùng, say mê quá chợt bây giờ nhìn lại/chứa bao điều bão tố ở bên trong (Võ Văn Trực) đã buộc phải thay đổi tư duy thơ của mình. Ta thấy rõ điều đó trong thơ Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Trọng Tạo, Anh Ngọc” và nhiều người khác, kể cả Tố Hữu:

Mới bình minh đó đã hoàng hôn
Đang nụ cười tươi, bỗng lệ tuôn
Đời thường sớm nắng chiều mưa vậy
Khuấy động lòng ta biết mấy buồn
Những nhà thơ đến sau, có thừa sự dũng cảm và liều mình, lại có thêm kinh nghiệm của người đi trước, đã không khoan nhượng:
Đập nát sự đơn điệu, khuôn khổ cũ kỹ, nhàm chán và cam chịu
Em tự làm mất đối xứng bằng em
                                    (Vi Thuỳ Linh)

Có thể còn chưa được thừa nhận rộng rãi, nhưng một thái độ và cách suy nghĩ như vậy nên trân trọng.

Nhưng ở đời mọi cái đều chứa đựng hai mặt ngay cả như một chiếc lá hay một tờ giấy mỏng. Nếu cứ đi mãi vào cái tôi, đi không cùng, không có một tư tưởng thẩm mỹ nào dắt dẫn, có thể đó là đường dẫn đến sự vô xác định của ý thức. Một số bạn làm thơ trẻ, có thể đã học được ở những cây bút có tuổi, đã đưa đến trong thơ sự bí hiểm, sự tắc tị. Khi sự hiểu đã đến “độ không” thì thơ ấy không đi được vào công chúng. Nếu ta thừa nhận, thơ là nơi để cảm thông, chia sẻ, là nơi tìm đến của sự đồng điệu... thì kiểu thơ bí hiểm này không có mấy triển vọng. Một số bạn làm thơ khác lại quá khẳng định “cái tôi” của mình bằng cách đưa vào thơ quá nhiều tục tĩu, tầm thường, đối lập triệt để với quan niệm “thơ dâng”, thơ “là quà tặng của thượng đế” v.v... Đấy cũng không phải là nơi cần đến của thơ. Hiển nhiên tôi biết rằng, khi xác định “thơ là gì?”, Jakobson, một nhà nghiên cứu ngôn ngữ, mỹ học nổi tiếng của Hoa Kỳ dặn rằng: “Nếu chúng ta muốn xác định khái niệm này (tức “thơ là gì?”) cần phải đối lập nó với cái không phải là thơ. Nhưng nói cái gì không phải là thơ, ngày nay không phải dễ”.

L.T.N
(185/07-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H

  • MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.

  • INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.

  • HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).

  • VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.

  • HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.

  • NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.

  • L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire  francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.

  • NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).

  • ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre),  tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.

  • MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.

  • HÀ VĂN LƯỠNG  Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.

  • TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.

  • HOÀNG TẤT THẮNG                1. Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải chỉ là một vị lãnh tụ, một người thầy kiệt xuất của phong trào cách mạng Việt mà còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt hiện đại. Bác Hồ chưa bao giờ có ý định trở thành nhà thơ, nhà văn, song các tác phẩm thơ văn ngôn ngữ của Người đã trở thành một mẫu mực, một phong cách đặc biệt cho các thế hệ người Việt tiếp tục nghiên cứu và học tập.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNĐề tài và chủ đề là hai trạng thái cơ bản nhất, bao dung hết thảy làm nên cấu trúc tổng thể tác phẩm tiểu thuyết. Hai trạng thái đó trong liên kết tương tác gây dẫn nên tất cả những yếu tố ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Chúng còn đồng thời gây dẫn nên những yếu tố ý nghĩa liên quan nảy sinh trong tư duy tiếp nhận ngoài ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Nhưng dẫu có như thế, chỉ có thể hình dung cho đúng đắn được đề tài, chủ đề theo định hướng duy nhất thấy chúng trong cấu trúc nội bộ tổng thể tác phẩm tiểu thuyết.