Khi đường vào văn chương là những mê lộ mới

08:56 03/01/2012
VIỄN PHƯƠNGKhi văn chương tham dự vào những mê lộ mới, mê lộ của nhận thức luận phức hợp hôm nay, khi nhà văn không còn hứng thú trong việc lục lọc, săm soi lại các bảng giá trị trong truyền thống thì tất yếu văn chương sẽ bước vào những cuộc chơi mới.

tranh Picasso, nguồn internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Trong cuộc chơi mới của mình, dù muốn dù không, để thực sự có thể định danh là người chơi mới, nhà văn cũng phải bội ước với một số giá trị đã đóng khung trong truyền thống. Đó như là một quy luật tất yếu và cũng là cách thức để nghệ thuật hướng thượng.

Tiếp xúc với tập truyện ngắn Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông, chúng tôi nhận ra có những dấu vết của cảm quan văn chương hậu hiện đại, văn chương của thời chơi mới. Sáng tác của Nguyễn Vĩnh Nguyên không còn là tấm gương phản ảnh một cách trung thực ngoại giới, mà trong những núi rừng nhiệt đới sáng tạo, nhà văn đã nhìn lại khuôn mặt của mình, để thấy những góc cạnh khác, từ đó bước vào kiến giải những bề khuất lấp trong chốn tiềm thức, những miền sâu thẳm trong thế giới tâm hồn. Văn chương Nguyễn Vĩnh Nguyên đã khước từ hiện thực để làm một cuộc nội soi quyết liệt vào chính bản thể của người sáng tạo, và những ý‎ niệm trên văn bản của tác phẩm từ đó mà sinh ra. Trong thế giới của chữ mọi giá trị đều được cào bằng, nhất là những quyền lực bên ngoài chữ mà truyền thống đã vững tin theo. Đến với thế giới nghệ thuật Nguyễn Vĩnh Nguyên, chỉ có chữ là tất cả. Chữ sinh lời, đẻ biểu tượng làm sinh động những ám dụ. Những phát ngôn trở nên không còn thứ bậc trong một hệ hình (paradigme) mới, tất cả đã được làm phẳng, mọi tiếng nói đều có quyền cất lên,  chen vai hích cánh nhau làm nên tác phẩm. Sự hoài nghi bao trùm lên toàn bộ tác phẩm trong tập truyện. Nhân vật có những hành vi phá vỡ quy tắc đã được găm sâu trong lí tính. Sự đổ vỡ của trật tự đời sống trong truyện ngắn Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông hay những những sự vụ tưởng chừng như chỉ có trong miền hoang tưởng đi vào tác phẩm như một ám dụ về hiện thực trong “Chữ bay” hay “Chìa khóa của người ăn từ điển”. Đó là những minh chứng rõ ràng làm cho những thang giá trị cũ, của kiểu phản ánh như thực ngoài đời từng tồn tại trong truyền thống, giờ đã đổ vỡ. Không khó để nhận thấy con người trong thế giới chữ của Nguyễn Vĩnh Nguyên là những thân phận đứng trước sự tan tác của trật tự đời sống, trở nên bơ vơ, lạc loài, vong thân. Tâm trạng hoài nghi, sự bất an bủa vây họ. Không còn tin tưởng vào đời sống bên ngoài đã đẩy con người đi đến giới hạn tột cùng của sự hoài nghi: “Sẽ không một tiếng kêu cứu nào kịp thoát ra. Tất cả sẽ biến mất. Những ‎ý nghĩ trong đầu cũng biến mất” (Bản tường trình kèm theo những tra cứu khác nhau xoay quanh một sự cố không khớp). Đó chính là sự đả phá lí tính, vì lý tính giờ đây là cái cần phải đả phá, thứ lý tính nô lệ, tôi đòi, bầu lên xã hội kỹ trị tù đày con người, sự đánh mất hiện hữu của thân xác và sự vắng mặt của tâm thức thời hậu hiện đại được Nguyễn Vĩnh Nguyên kêu gọi về trong tác phẩm.

Người đọc can dự vào văn bản cũng chính là lúc anh ta tham dự vào một cuộc chơi, một cuộc chơi hoàn toàn mới với những điều luật mới, luật chơi của sự đồng sáng tạo sẽ đưa người đọc đi về muôn nẻo, có khi còn là nẻo ngược chiều với sự sắp đặt ban đầu của tác giả. Bút pháp của Nguyễn Vĩnh Nguyên là một minh chứng cho một kiểu dạng văn chương mới đã hiện tồn trong văn học đương đại hôm nay. Hiện thực trong văn bản không còn là sự trình chiếu hình ảnh ngoại giới mà là những yếu tố cấu trúc nên từ tâm thức chủ quan của chính nhà văn. Nhà văn không còn vấn vương với những đường xưa lối cũ trong thi pháp văn chương hiện thực trước đây. Tất cả, hầu như mất dấu trong toàn bộ tập truyện ngắn này. Chính bởi thế, mà người đọc khó lòng tri nhận một hình ảnh, một khuôn mặt, một sự kiện nào đó một cách trọn vẹn trong mỗi truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên. Tác phẩm không còn nhiệm vụ là những đại tự sự phải vẽ cho đúng, cho hết khuôn mặt của hiện thực, những thông điệp mang tính phổ quát cũng không hề xuất hiện, và không cần phải xuất hiện trong truyện ngắn Nguyễn Vĩnh Nguyên. Vì sự thực, làm gì có một thế giới khách quan phổ quát, thế giới chỉ là những mảnh vỡ, của tôi, do tôi và được tôi cấp nghĩa mà thôi. Nói như Einstein, thế giới như tôi thấy, nên luôn mang tính tương đối. Rất buồn cười nếu một ai đó cứ cố công – cái công dã tràng, đi tìm sự sai biệt, lệch chuẩn của văn bản và hiện thực để xem đó như một sự mắc lỗi của nhà văn. Ở đây, xin nhớ cho, trong thế giới nghệ thuật Nguyễn Vĩnh Nguyên, tính ngụy tạo bao trùm câu chữ.

Nếu đối sánh với những dạng thức kết cấu trong văn chương truyền thống, chúng ta sẽ thấy ngay rằng Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông là tập truyện ngắn có những đột phá mới trong kết cấu. Đôi khi sự vượt phá này khiến người đọc mang những vết hằn truyền thống khó chịu và hoài nghi rằng một kiểu kết cấu bị vỡ vụn như thế liệu có bao hàm hay chuyển tải một ý nghĩa nào đó hay không. Tính chất đa trị, xu hướng giải nhân cách hóa, giải thiêng, xem thế giới như là một hỗn trạng không hơn không kém đã đưa truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên tiến tới xô ngã và làm đỗ vỡ, gãy vụn kiểu kết cấu theo dòng logic sự kiện và sự trôi lăn theo quy luật nhân quả của các chi tiết có trong kết cấu văn chương cũ. Dạng thức kết cấu chúng tôi muốn nói tới trong truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên đó là dạng kết cấu lắp ghép, phân mảnh - một món ăn khoái khẩu của các nhà văn hậu hiện đại. Đứng trước một không gian thế tục hỗn độn, một không gian “thậm phồn” (mượn chữ Hoàng Ngọc –Tuấn), nội tại văn bản nếu như muốn chuyển tải cả một quái trạng khổng lồ theo màu sắc nguyên y như ngoại giới chắc chắn sẽ trở nên chật chội, và khát khao xác tín hiện thực là bất khả. Kết cấu lắp dựng trở thành phương thức nghệ thuật đắc dụng của Nguyễn Vĩnh Nguyên. Tính chất lắp ghép trước hết hiển lộ ngay trên bề mặt tác phẩm. “Những tia chớp hay vệt truyện facebook” là một truyện ngắn tiểu biểu cho kiểu kết cấu này. Tác giả chia truyện ngắn thành 14 đoạn (cũng có thể xem đó là 14 truyện chớp) được đánh số thứ tự, mỗi đoạn có một dung lượng khác nhau và nội dung mỗi đoạn cũng chuyển tải những ý tưởng khác nhau. Không có một sự nối kết nào giữa các đoạn, hay nói đúng hơn không có một phép tu từ nào xuất hiện để nối kết, nếu như có thì cũng là những kết nối ngầm ẩn. Tất cả sự hỗn mang đó tạo thành một chỉnh thể. Nhà văn thực sự chơi khăm khi cuối tác phẩm này anh ta viết: “Thành thật xin lỗi độc giả.” Người viết muốn gì? Lẽ nào anh ta muốn nhìn những khuôn mặt cau có của người đọc vì khó chịu trước trò chơi ngôn ngữ tưởng chừng như vô trách nhiệm của người sáng tạo? Thế giới của những Ý niệm vẫn mãi là những sợi dây ngầm ẩn bên dưới trò chơi và luật chơi. Ở đây chúng ta có quyền đọc một cách lộn xộn không theo thứ tự của từng phân đoạn. Có thể xáo trộn chúng tùy theo hứng thú của chúng ta. Không có một luật chơi cố định nào cả. Và cũng không ai có đủ thẩm quyền để thảo ra một luật chơi cố định khi thế giới đã trở nên ngụy tạo. Luật chơi hoàn toàn tùy thuộc vào chủ quan của những ai can dự vào trò chơi. Phải chăng thế giới ngoại tại đã bị bóp méo, xáo trộn? Sự thức nhận ngoại giới hoàn toàn tùy thuộc vào chủ quan của chủ thể nhận thức. Kiểu kết cấu lắp ghép này được Nguyễn Vĩnh Nguyên triển khai trong nhiều tác phẩm khác. Nó tương đương như một trò chơi xếp hình. Toàn thể bức tranh cần tìm được tạo nên bởi những mảnh vỡ nhỏ đặt xa nhau. Khi người đọc, kẻ can dự vào trò chơi, tìm được tổng thể bức tranh thì đó cũng là lúc anh ta đã chiến thắng trong trò chơi. Người đọc chính là người khoác ý niệm lên cho mỗi cuộc chơi. Sau mỗi cuộc chơi sự sản sinh ý niệm sẽ xảy ra và thậm chí sự sản sinh ý niệm về tác phẩm là vô cùng vô tận. Khả năng tri nhận, kiến thức liên văn bản của người đọc càng rộng thì ý niệm sản sinh sau mỗi một lần đọc tác phẩm càng lớn. Trong chiều sâu của nó có thể diễn giải rằng kiểu kết cấu này là một nỗ lực biểu đạt đầy chủ động của văn nhân, một sự tìm tòi, sáng tạo và thể nghiệm của những người đang dò tìm đường đi cho một sự đổi thay khẩn thiết trong văn chương. Sự đỗ vỡ trật tự thời gian và không gian, sự rỉ mòn của nhận thức, sự khước từ túi khôn lí tính, việc bỏ ngỏ các sự kiện một cách tràn lan vô cớ, việc rải chữ lên bề mặt văn bản như những ký hiệu vỡ vụn, sự kết dính một cách lỏng lẻo giữa các ý tưởng trong mỗi truyện ngắn đã thống trị hầu như toàn bộ các tác phẩm nằm trong tập truyện này. Tất cả làm nên một sự ngạc nhiên, thậm chí là sự khó chịu và cảm giác xa lạ từ phía người đọc. Vậy, thật ra có phải đây là trò chơi vô nghĩa lý, một sự chơi khăm của kẻ cuồng tưởng muốn đả phá nghệ thuật chân chính?  Không là vô nghĩa lý thì ý niệm nào được giấu dưới lớp hành ngôn phức tạp trong một màn quảng diễn bề bộn thủ pháp, một lối chơi khó ưa như thế?  Vạn vật và con người đang hiện hữu trong một quái trạng bị xé nhỏ, hiện thực hiểu như cái truyền thống, đã bị làm sai lệch đến tận gốc rễ. Không còn một cách thức gì để xác định chúng xuất phát trong những điều kiện cụ thể nào của thế giới hiện thực. Hay chính chúng ta đã khước từ hiện thực để đi vào một thế giới ngụy tạo phát xuất từ sự nhận thức và dắt đường đưa lối của chính vô thức chúng ta? Con người của thời mới, của những cuộc chơi mới đã cáo biệt hiện thực trần trụi để truy tìm những giấc mơ hoang tưởng có trong chốn tiềm thức của tộc loại. Và đó chính là một chiều kích mới của một dạng thực tại mới.  Phế truất sự ngự trị của tính logic, Nguyễn Vĩnh Nguyên đang tìm đến một thế giới khác để cấp ý nghĩa cho nó. Ý nghĩa là nhà văn muốn cấp đôi khi lại nằm ngoài sự tri nhận của lý tính, vì anh ta đã thuộc về giấc mơ và những cơn hoang tưởng.

Kiểu nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình đã vẽ nên hình hài của văn chương hiện thực trong mấy thập niên qua. Và ở đây, trong tác phẩm này, Nguyễn Vĩnh Nguyên đã làm một Cuộc bội ước ráo hoảnh (Lê Thăng Long) với dạng thức nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Chúng ta khó có thể “bắt tận tay, day tận trán” khuôn mặt của một nhân vật nào đó trong tác phẩm để nói rằng anh ta biểu trưng, đại diện cho một tầng lớp nào đó trong xã hội. Các nhân vật trong “Quả táo, con rắn, người nam, người nữ, khu vườn và kẻ giấu mặt” là những người hoàn toàn xa lạ, những kẻ vô danh vô tính, những tha nhân, nhưng cũng có thể họ đã hiện hữu đâu đó trong ta hoặc ngoài ta. Khước từ sự định danh, định tính cho nhân vật, tẩy trắng hoàn toàn những gì dính líu tới nhân vật mà theo văn chương truyền thống đáng ra những điều đó phải hiển hiện đã đưa thế giới ngụy tạo trong văn chương của Nguyễn Vĩnh Nguyên trượt vào mê lộ của sự vắng mặt. Sự lấp lửng lưỡng nan trong hình tượng là những mê dụ nhưng cũng là những thách đố trong việc truy tìm ý niệm. Ở đây, những dạng thức nhân vật khác của văn chương Hậu hiện đại cũng góp mặt. Kiểu nhân vật đám đông trong “Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông”, hay kiểu nhân vật nghịch dị, hoang tưởng trong “Chiếc chìa khóa của người ăn từ điển”, “Chữ bay” là những minh chứng… Dấu vết của lối kết cấu vẫy gọi, kếu cấu liên văn bản cũng mang lại cho văn chương của tác giả này không khí của những siêu tiểu thuyết. Dĩ nhiên, liên văn bản là một trò chơi không phải ai cũng có thể tham dự được. Trên thế giới, những văn nhân cao tay và thành danh trong trò chơi liên văn bản như Umberto Eco, Robbe – Grillet, Italo Calvino, Cao Hành Kiện… là không nhiều. Công bằng mà nói thì văn nhân Việt vẫn chưa mấy ai thành công trong việc chắp nối, liên kết những mảng màu kiến thức khác nhau trong sáng tác của mình. Sự hỗn chứa nhiều loại kiến thức trong văn bản chưa tạo ra được một sức mạnh tổng lực của sự biểu đạt. Đó là một điều dễ hiểu bởi việc vượt thoát sự đeo bám của tư duy nghệ thuật tiền hiện đại là một điều khó khăn làm sao. Vẫn còn nhiều điều muốn nói về thi pháp của tập truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên, nhưng do dung lượng ngắn của tiểu luận, nên ở lưng chừng nhìn Nguyễn Vĩnh Nguyên, chúng tôi dừng lại sự chơi muốn như là chơi bất tận trong thế giới chữ Nguyễn Vĩnh Nguyên.

Khi văn chương là thế giới ngụy tạo, thế giới đi ra từ trong tâm thức của kiểu văn nhân thời mới thì tất nhiên việc tìm ra các mã nghệ thuật dung chứa ẩn ngầm trong tác phẩm không còn đơn giản như trước. Vì thế, người đọc phải có bản lĩnh và một cảm quan nghệ thuật sâu rộng trước khi can dự vào thế giới ngụy tạo của nhà văn, để mong sao, từ nay không còn có những tác phẩm nghệ thuật phải chết đi một cách oan uổng khi nó chưa kịp cử động đôi cánh của mình.

Trong cái nhìn đối sánh về mặt tư duy nghệ thuật thì văn chương Việt hiện nay tụt hậu khá xa so với sự phô diễn các lối chơi quái đản của văn chương và các lĩnh vực nghệ thuật đương đại khác trên thế giới. Nguyễn Vĩnh Nguyên với những tìm tòi, thể nghiệm trong thế giới chữ của mình có can dự được vào vĩnh cửu hay không còn chờ ở quy luật đào thải nghiệt ngã của thời gian và nghệ thuật. Nhưng một lần nữa, cần thiết phải khẳng định rằng ý thức cách tân, ý thức cần chết đi để một lần sống lại trong sáng tác của Nguyễn Vĩnh Nguyên luôn luôn là một điều đáng trân trọng.

(SH274/12-11)

 






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • KHẾ IÊM

    Viết hy vọng có thể giúp người đọc tự đánh giá thơ, theo đúng tiêu chuẩn của dòng thơ này, và những nhà thơ Tân hình thức Việt, trong việc thực hành, có thể điều chỉnh những sáng tác của mình, đi xa hơn, và làm nổi bật sự khác biệt giữa các thể loại thơ, tự do và vần điệu.

  • PHẠM THỊ HOÀI

    Tôi không nói tới việc viết văn thuần túy vì mục đích kiếm sống, dù đấy là điều rất đáng bàn, và hơn nữa, sự nghèo túng của những người cầm bút ở xứ sở này đã trở thành truyền thống; cũng không nói đến việc viết văn để kiếm chác một vài thứ khác ít đáng bàn hơn, như danh vị hay thứ đặc quyền xã hội nào đó.

  • LỮ PHƯƠNG

    Sau khi Sông Hương 36, 1989 xuất hiện, cũng đã xuất hiện một số bài báo phản ứng, trong đó có hai bài nhắc đến bài viết của tôi (1) - bài ký tên Trần Phú Lộc: “Ðôi lời nhân đọc Sông Hương số 36”, Văn nghệ số 21, 27-5-1989 và bài ký tên Văn Nguyên: “Báo động thật hay giả”, Nhân dân 20.5.1989.

  • MAI ANH TUẤN

    Cụm từ “văn chương Nguyễn Huy Thiệp” không chỉ được tạo ra bởi và thuộc về giai đoạn văn học Đổi mới (1986) mà giờ đây, rộng rãi và phức tạp hơn rất nhiều, đã có mặt trong nhiều nghiên cứu Việt Nam (Việt học) đương đại, từ văn hóa văn chương đến chính trị - xã hội.

  • ĐỖ ĐỨC HIỂU

    14 tháng bảy 1789, nhân dân Pari chiếm và phá ngục Bastille, biểu trưng của chế độ phong kiến đã tồn tại ở Pháp hàng chục thế kỷ. Nó là một "đại hồng thủy" cuốn sạch một thế giới cũ và mở đầu một thế giới mới ở Pháp, ở Châu Âu và vang dội trên toàn thế giới.

  • TRẦN HOÀI ANH

    1.
    Nói đến triết học phương Tây, không thể không nói đến chủ nghĩa hiện sinh, một trào lưu tư tưởng chủ yếu trong trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi duy lý của triết học phương Tây hiện đại.

  • JOSEPH EPSTEIN

    Có một số thứ ở đó sự tầm thường là không thể được dung thứ: thơ, nhạc, họa, hùng biện.
                                    (La Bruyère).

  • LÊ THÀNH NGHỊ

    Văn học nghệ thuật có sứ mệnh phản ảnh sự thật cuộc sống qua đó rút ra bài học ý nghĩa đối với con người. Nguyên lý này không có gì mới mẻ. Lịch sử văn học nghệ thuật cũng chứng minh rằng, gắn bó với hiện thực, phản ảnh chân thực hiện thực là thước đo giá trị của tác phẩm. Điều này cũng không còn xa lạ với mọi người.

  • NGUYỄN THỊ TUYẾT

    A work of art was a form expressive of human feeling,
    Created for our aesthetic perception through sense or imagination.

    - S. Langer(1)
    I paint objects as I think them, not as I see them.
    - Pablo Picasso(2)

  • NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG

    Cách đây một thời gian có hai phóng viên báo Sông Hương đến gặp tôi, đó là hai người Huế. Vì thế tôi có ngay những tình cảm rất đẹp, tình đồng hương. Thứ nữa, tôi thầm nghĩ: Chắc là hai phóng viên này muốn trao đổi với mình về đề tài vô thức đây! Và quả thực như thế.

  • YẾN THANH

    Bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo viết ngày 28/8/1945 tại 48 Hàng Ngang và đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một văn bản chính trị quan trọng bậc nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại.

  • NGUYỄN THÁI HOÀNG    

    Đi từ triết học đến văn học, quan niệm về hiện tồn phi lí trở thành cảm thức phổ biến của con người hiện đại trước tình thế tồn tại chông chênh, mù mờ bất khả giải.

  • PHẠM PHÚ PHONG   

    Nhìn lại đội ngũ những người viết phê bình văn học trong cả nước ngày càng thưa vắng, thì ở các địa phương miền Trung càng thưa vắng hơn, đến mức có khi không tìm đâu ra chân dung một nhà phê bình thực thụ, đằng sau các bài điểm sách, đọc sách trên các báo.

  • NGUYỄN ĐĂNG MẠNH

    Hiện nay trong giới văn học đang diễn ra nhiều cuộc tranh luận sôi nổi (chỉ được phản ánh phần nào trên báo chí). Những cuộc tranh luận này càng sáp vào việc chuẩn bị cho Đại hội Nhà văn lần thứ 4, càng trở nên gay gắt hơn và người ta càng thấy rõ hơn những gì ẩn đằng sau những ý kiến đối lập.

  • LỮ PHƯƠNG

    Khi theo dõi những cuộc thảo luận về mối tương quan giữa chính trị và văn nghệ trên báo chí nước ta sau thời kỳ "cửa đã mở", tôi gặp một bài đáng chú ý đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 7, 1988 ký tên Lê Xuân Vũ: Quan hệ giữa văn nghệ và chính trị không phải là quan hệ giữa hai "bá quyền" trong xã hội.

  • LẠI NGUYÊN ÂN

    Tạp chí Cộng sản, số 11-1988 có đăng bài “Quan hệ văn nghệ và chính trị không phải là quan hệ giữa hai "bá quyền" trong xã hội” của Lê Xuân Vũ.

  • PHẠM TẤN XUÂN CAO

    Trong một dạng thức của lời nói, các đối tượng không có màu sắc.
                                               Wittgenstein[1]

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY

    1. Từ thập niên 90 của thế kỉ XX, nhà văn Trần Duy Phiên đã sáng tác nhiều tác phẩm mang đậm tư tưởng sinh thái mà tiêu biểu là bộ ba truyện ngắn viết về côn trùng Kiến và người (KVN), Mối và người (MVN), Nhện và người (NVN).