Khác biệt để phát triển

15:09 22/01/2021

Quá trình sáng tác và thực hành các loại hình nghệ thuật luôn đòi hỏi sự sáng tạo, nghiêm cẩn của mỗi nghệ sĩ. Trong quá trình ấy, tính độc lập, riêng biệt của nghệ sĩ sẽ tạo ra sự khác biệt, để lại dấu ấn và phát triển. Đó là chia sẻ của nhiều nghệ sĩ tại tọa đàm “Trùng trùng tiếp tiếp: sân khấu xưa và nay” tối 20.1.

Cảm xúc nghệ sĩ tạo nên dấu ấn khác biệt cho vở diễn

Truyền thống không bất biến

Theo nghệ sĩ Nguyễn Mạnh Đức, qua thời gian, các loại hình nghệ thuật đều đứng lên đòi quyền độc lập, sân khấu truyền thống cũng không ngoại lệ. Kéo theo đó, mỗi cá nhân làm nghệ thuật và mỗi bộ môn nghệ thuật cũng luôn mong muốn được thể hiện tính riêng trong sự phát triển chung. Trong các loại hình sân khấu kịch hát, tuồng mang tính hành vi rất cao, đòi hỏi sự trau chuốt, tinh khéo của động tác, dễ mang đến cảm nhận trực diện cho người xem. Là sự tổng hợp của nghệ thuật ca, múa, nhạc và diễn trò, bản thân mỗi vở tuồng và diễn viên thực hành bộ môn nghệ thuật này đều hướng tới mục đích thể hiện cảm xúc, tư duy, suy nghĩ cá nhân, xa hơn là tư tưởng vở diễn, ý tưởng về nội dung, quan điểm nghệ thuật.

Nhiều nghệ sĩ cho rằng, truyền thống là bản sắc, ở phương diện cụ thể, bản sắc ấy được thể hiện khác nhau trong cá nhân mỗi nghệ sĩ. Với nghệ thuật truyền thống, diễn viên có thể yêu hay ghét, song thái độ, cách tiếp cận như thế nào là do họ. “Tôi từng nghe nhiều tranh luận, nếu không hiểu truyền thống sẽ khó thực hành các loại hình nghệ thuật đương đại. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều người không biết/hiểu nghệ thuật truyền thống, lại làm khá tốt các loại hình này, bởi tính cá nhân của họ rất cao. Cá nhân tôi cho rằng, với cả người diễn và người xem, nên hiểu truyền thống để thể hiện rõ hơn sự yêu, ghét của mình đối với các bộ môn nghệ thuật. Chỉ khi hiểu truyền thống mới có thể biến đổi hiểu biết này thành tính cá nhân, từ đó dễ dàng nắm bắt, hòa hợp với sân khấu quốc tế”, nghệ sĩ Nguyễn Mạnh Đức nói.

Còn theo đạo diễn, NSƯT Đặng Bá Tài (Nhà hát Tuồng Việt Nam), với sân khấu tuồng, đành rằng không phải là bất biến, nhưng truyền thống là sự tiếp nối, kế thừa, cô đúc, là sự chắt lọc và định hình từ hàng chục, hàng trăm thế hệ nghệ sĩ đã đồng sáng tạo những vai diễn mẫu mực, có giá trị như: Kim Lân, Linh Tá, Phạm Ðịnh Công... cùng với những miếng diễn hết sức đặc sắc như: Kim Lân biệt mẹ, Kim Lân qua đèo, Ôn Ðình chém Tá, Phạm Ðịnh Công đề cờ (trong vở tuồng “Sơn Hậu”); hoặc Lão Tạ sai Cơ, Phương Cơ qua ải, Tạ Ngọc Lân lăn lửa (tuồng “Tam nữ đồ vương”)… Song, nếu tuồng của 100 năm sau vẫn diễn như 100 năm trước thì rất khó có người xem, khó tìm được công chúng.

Cảm xúc - dấu ấn khác biệt

NSƯT Đặng Bá Tài cho rằng, giá trị của sân khấu là một dòng chảy không ngừng nghỉ. Từ quá khứ đến hiện tại, tác phẩm sân khấu được định hình bởi các tài năng sáng tạo ra nó. Thế hệ của ông được đào tạo theo một phương pháp hoàn toàn khác so với thế hệ sau này. Do vậy, người theo học nghệ thuật có sự cảm nhận khác, thay đổi theo từng điều kiện môi trường xã hội.

Mở rộng vấn đề, một số nghệ sĩ nêu quan điểm, các trường học nói chung lâu nay vẫn dạy trò làm và tư duy theo thầy, song dường như quên hoặc rất ít khi dặn học trò hãy làm bằng những gì mình học được hoặc cần sẵn sàng thể hiện tố chất sẵn có. Sự sáng tạo của người học sẽ làm nên tính cá biệt, đặc sắc của sản phẩm họ làm ra. Nghệ sĩ tuồng Nguyễn Đình Nam đồng tình, không thể bắt trò làm theo răm rắp những gì thầy bà truyền đạt. Ngoài việc học thầy, nghệ sĩ phải có cái tôi, có chính kiến thì mới phát triển. Đúng hơn, “nếu chỉ dựa vào thầy, chúng ta chỉ là những con rối”.

Hiện nay sân khấu tuồng, chèo, cải lương rất khan hiếm khán giả. Ở các loại hình nghệ thuật khác, đơn cử như mỹ thuật, họa sĩ nào vẽ giỏi sẽ bán được nhiều tranh, nhà văn nào tiếp cận với cách nhìn của thế giới thì bán được nhiều sách. Với nghệ thuật nói chung, một số tác giả khai thác cái tôi mạnh mẽ, tiếp cận và đề cập tất cả các vấn đề của đời sống xã hội thì có thể tác phẩm của họ được đông đảo công chúng đón nhận. "Song, áp dụng điều này với sân khấu truyền thống lại rất khó”, NSƯT Đặng Bá Tài nhận định.

Tuy nhiên, NSƯT Đặng Bá Tài giải thích thêm, một số vở tuồng truyền thống cách đây hàng trăm năm đến nay vẫn tồn tại, không chỉ bởi nó mang nội hàm khái quát, nội dung sâu sắc, dấu ấn nghệ thuật xuyên thời gian như “Tam nữ đồ vương”, “Ngọn lửa hồng sơn”, “Sơn Hậu”, “Trảm Trịnh Ân”... mà còn mổ xẻ nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội, được khán giả yêu chuộng. “Vấn đề chúng tôi muốn bàn là, tại sao các vở tuồng hiện đại gần đây cũng đầy ắp hơi thở cuộc sống, lại ít được nhớ đến, khán giả xem rồi dễ dàng quên. Vậy, giữa giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật đang có sự vênh nhau. Tính độc lập, tính tự do đang được phát huy để khuyến khích các cá nhân phát triển và sáng tạo. Một tác phẩm sân khấu truyền thống không thể bắt diễn viên thực hiện như nguyên bản các vở diễn mẫu mực xưa, bởi động tác có thể gần đúng nhưng cảm xúc là những gì rất riêng của mỗi nghệ sĩ”.  

Thực tế, các nghệ sĩ ở cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, đa số không được trực tiếp xem những vở tuồng thầy mẫu mực, những vai diễn đặc sắc của các nghệ sĩ thế hệ trước, song họ vẫn thể hiện rất đạt các vai diễn tuồng truyền thống. Để làm được điều đó là bởi cảm nhận của nghệ sĩ với vở diễn và cảm xúc khi thể hiện. Tất cả làm nên sự khác biệt giữa các nghệ sĩ.

 
Theo Hương Sen - ĐBND
 
 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • “Phải xem hành lang pháp lý cho văn hóa còn thiếu cái gì. Cái gì lỗi thời rồi cần đổi mới, cái gì mâu thuẫn cần điều chỉnh”, GS-TS Phùng Hữu Phú, Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận T.Ư, nói tại hội thảo quốc gia Những giải pháp tổ chức triển khai Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người VN đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

  • Cả nước lại sắp bước vào mùa lễ hội Tết Ất Mùi 2015. “Đến hẹn lại lên”, những câu chuyện tiêu cực mùa lễ hội dường như vẫn là bài toán nan giải đối với các nhà quản lý.

  • Câu chuyện về văn hóa đọc không còn là đề tài mới mẻ nhưng vẫn luôn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ. Liệu rằng độc giả trẻ đã chọn được cho mình hướng đi đúng đắn?

  • Đó là thông tin được đưa ra tại cuộc họp tổng kết năm của Cục Xuất bản chiều 24/12. Nguyên nhân của việc không đọc xuể sách phát hành là do thiếu nhân lực.

  • Cùng với yêu cầu ngày một cao đối với chất lượng bản dịch, việc nhận xét, hồi âm của độc giả cũng ngày càng nhiều hơn và trực tiếp hơn, tuy nhiên, trong số đó có những người đang làm việc “ném đá” thay vì “phê bình” một cách thiện chí – đó là ý kiến của BTV Phùng Hồng Minh về những tranh luận quanh bản dịch tiểu thuyết “Bên phía nhà Swann” của Marcel Proust.

  • Hiện, khá nhiều kiệt tác của văn chương, triết học thế giới đã được dịch ra tiếng Việt với mục đích khai trí, “mở mắt”, dẫn bạn đọc vào biển kiến thức sâu rộng của nhân loại. Song, trước những bản dịch sai “từng xăngtimét”, bạn đọc không thể “nhắm mắt làm ngơ”…

  • Theo mấy nghiên cứu gần đây thì việc đọc sách văn học khiến cho người ta thông minh hơn, giàu tình cảm hơn, và văn minh hơn. Báo New York Times bèn đặt cho một số nhà văn và học giả câu hỏi: “Văn chương dạy chúng ta điều gì về tình yêu?”

  • Nghệ sỹ ăn mặc phản cảm, giá trị nghệ thuật bị xem nhẹ, thiếu văn hóa trong cách ứng xử... là những hiện tượng cho thấy văn hóa Việt đang biến đổi một cách nhanh chóng.

  • Nghề vẽ tranh trên kiếng ở Phú Tân (H.Châu Thành, Sóc Trăng) từng một thời nổi tiếng khắp Nam bộ nhưng giờ đây phải đối mặt với nguy cơ mai một.

  • L.T.S: “Muốn giao lưu văn hóa với bên ngoài tốt thì bản thân đất nước phải tốt”. Đó là nhận định xuyên suốt cuộc nói chuyện với phóng viên Tạp chí VHNA của Nhà xuất nhập khẩu văn hóa Hữu Ngọc. Khó mà ngờ được ở tuổi 97, ông vẫn giữ tác phong nhanh nhẹn, trí nhớ minh mẫn đến vậy. Bạn bè gọi ông là “cầu thủ ngoại hạng”, điều đó thật chính xác.

  • Những tư liệu quý chìm trong hỗn độn hiện vật xung quanh. Những bảng biểu số liệu nặng tính báo cáo... Chúng khiến triển lãm Hà Nội 60 năm xây dựng và phát triển (từ ngày 4 - 12.10 tại Bảo tàng Hà Nội nhân kỷ niệm 60 năm giải phóng thủ đô) giống như một báo cáo thành tích khô cứng.

  • Biết bao tác giả có tác phẩm thơ, văn được sử dụng trong sách giáo khoa đã không được chi trả tiền tác quyền suốt hàng chục năm qua...

  • Họa sĩ Trần Lương vừa trở thành một trong hai nghệ sĩ, nhà hoạt động văn hóa nhận được Giải thưởng Lớn giải Hoàng tử Claus 2014 (cùng Abel Rodriguez từ Colombia). “Giải thưởng cho tôi thấy rõ là mình đang làm những công việc bình thường của một công dân bình thường có trách nhiệm” - nghệ sĩ chia sẻ.

  • Tồn tại mấy trăm năm qua, vấn đề i và y trong chính tả tiếng Việt đã được chính quyền thuộc địa Pháp đặt vấn đề cải cách từ đầu thế kỷ XX. Sau 30-4-1975 các cơ quan hữu quan như Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Giáo dục - Đào tạo cũng có những quy định về vấn đề này, nhiều nhà nghiên cứu cả trong lẫn ngoài nước trước nay cũng đã tìm hiểu và có ý kiến, nhưng vẫn chưa được giải quyết rốt ráo.

  • Nếu như ca trù, dân ca quan họ, hát xoan, đờn ca tài tử Nam Bộ, nhã nhạc cung đình Huế… của Việt Nam được quốc tế công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thì trong tài nguyên, cũng có tài nguyên phi vật thể- tài nguyên con người.

  • Dân tộc và Văn hóa dân tộc Việt Nam có trước rất xa ngày lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhà nước này đã được dựng nên, tồn tại và phát triển trên nền tảng văn hóa Dân tộc. Nhà nước này, như một lẽ tất yếu, có trách nhiệm bảo vệ, phát triển nền văn hóa dân tộc.

  • Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.

  • Bắc Kạn có nhiều di tích lịch sử, với 12 di tích cấp quốc gia và 33 di tích cấp tỉnh. Trong thời gian qua, nhiều di tích đã được trùng tu, tôn tạo. Tuy nhiên, việc trùng tu lẽ ra phải trân trọng lịch sử, thì những người thực hiện lại “hoành tráng hóa” di tích.

  • Người ta hay quan niệm tháng bảy âm lịch là tháng “cô hồn”, rằm tháng bảy là để “xá tội vong nhân”, toàn khái niệm thuộc về “thế giới khác”. Ai đi chùa thì được biết tháng bảy còn gọi là mùa Vu Lan.

  • Lòng hiếu thảo hay lòng từ bi ở cấp độ cá nhân và gia đình giúp chúng ta tăng cường sức đề kháng với cái xấu, cái ác bên ngoài. Một người con hiếu thảo sẽ khó bị cám dỗ bởi những tệ đoan xã hội.