Kawabata Yasunari - “người lữ khách ưu sầu” đi tìm cái đẹp

15:21 04/06/2008
1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).

Kawabata là người đề xướng trường phái Tân cảm giác trên văn đàn Nhật bộn bề các khuynh hướng nghệ thuật những thập niên đầu thế kỷ XX. Trường phái Tân cảm giác đề cao vai trò của trực giác trong việc cảm thụ cái đẹp. Đó là sự cảm nhận trực tiếp, là những rung động tình cảm cùng tần số với cái đẹp mà nếu dùng lí trí để mổ xẻ sẽ làm tổn thương đến nó. Đấy chính là thái độ trân trọng cái đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ bén nhạy, tinh tế.
2. Tình yêu cái đẹp, cảm xúc về cái đẹp là một nét nổi bật của văn hóa Nhật Bản. Trước sự xâm thực của lối sống mới và văn hóa phương Tây, Kawabata đã miệt mài trên lộ trình tìm về cái đẹp của bản sắc dân tộc. Kawabata là nhà văn được người dân của xứ sở mặt trời mọc cho là "Nhật Bản nhất'! Kawabata say mê và am hiểu văn học phương Tây nhưng sâu thẳm tự cội nguồn ông vẫn là nhà văn phương Đông. "Đến hiện đại từ truyền thống", tác phẩm của Kawabata mang đậm dấu ấn của mỹ học truyền thống Nhật Bản.
Theo E.M.D' Jakonova: "Trong mỹ học tuyền thống Nhật Bản, nỗi buồn, nỗi u sầu, nỗi buồn cô đơn không tách khỏi khái niệm vẻ đẹp, bởi vì vẻ đẹp sẽ không đầy đủ nếu thiếu nỗi buồn" (1), "cái đẹp với tư cách là cái bé bỏng, mong manh, yếu đuối. (2) Nghiên cứu về thơ Haiku, Nhật Chiêu đã nêu rõ những cảm thức thẩm mỹ của văn chương Nhật Bản. Theo ông, trước hết là cảm thức sa bi, là cảm thức về sự sâu thẳm, u uẩn và huyền diệu của vạn vật". Wabi là nguyên lí cho rằng cái đẹp cao nhất nằm trong vẻ đơn sơ và sự thanh tịnh. Aware, bi cảm, "một cảm thức xao xuyến trước mọi vẻ đẹp não lòng của sự vật" (3) V.V. Ôtrinnicôp - một nhà văn Liên Xô (cũ), đề cập đến khái niệm Yugen -một tiêu chuẩn trong khái niệm về cái đẹp của Nhật Bản. Yugen "thể hiện tài nghệ nói ẩn dụ, ẩn ý, hoặc vẻ đẹp của câu nói chưa hết" (4) Thế giới nghệ thuật của Kawabata không tách rời quan niệm thẩm mỹ truyền thống ấy.(Từ tác phẩm đầu tiên Cô vũ nữ xứ Izu (1925) đến cuốn tiểu thuyết cuối cùng Vẻ đẹp và nỗi buồn (1963) Kawabata đều thể hiện nhất quán quan niệm về cái đẹp của mình. Cái đẹp và nỗi buồn, tình yêu và thiên nhiên, sắc đẹp và nữ tính trở thành cảm tính chủ đạo trong tác phẩm của ông.
Kawabata viết nhiều về tình yêu. Tình yêu đầu đời thơ mộng giữa một chàng trai trẻ và cô vũ nữ đẹp trong Cô vũ nữ xứ Izu. Tình yêu bất chợt mỏng manh nhưng nồng thắm giữa Shimamura và cô kỹ nữ trong Xứ tuyết. Tình yêu - tội lỗi đam mê- cái chết trong Ngàn cánh hạc. Tình yêu chung thủy, thiêng liêng trong Thủy Nguyệt... Với Kawabata tình yêu không chỉ là những cám xúc hạnh phúc, hoặc đam mê nhục dục mà tình yêu là sự khám phá đến tận cùng cái đẹp. Xứ tuyết là sự cảm nhận về vẻ đẹp bí ẩn của tình yêu, hồn người, vũ trụ qua mối tương giao đồng điệu. Nhân vật của Kawabata vừa yêu nhau vừa cảm nhận vẻ đẹp của nhau. Tình yêu trong tác phẩm của Kawabata có chút gì huyền diệu, thú vị của sự khám phá và phát hiện. Trong Ngàn cánh hạc, khi Kikuji gần gũi người mình yêu, "mặc dầu cảm thấy sự đụng chạm nồng nàn ấm áp”, “lại có cảm giác về một cái gì dìu dặt du dương như là âm nhạc chứ không phải một cái gì nhận biết qua xúc giác"'. Nhân vật nữ của Kawabata luôn ánh chiếu vẻ đẹp bên trong, ở họ có một cái gì đấy khó nắm bắt. Tất cả dường như ở dạng trực cảm, ẩn náu và tế vi. Tất cả họ đều tràn trề nữ tính. Komako thánh thiện và trần tục, tỉnh táo và đam mê. Cô trốn chạy người đàn ông này để lao vào giường người đàn ông khác, tin cậy và dịu dàng, Yôko lạnh lùng và cháy bỏng, thơ ngây và thâm trầm (Xứ tuyết). Kiôko nhạy cảm, tinh tế và thủy chung (Thủy nguyệt). Fumiko kín đáo, sâu sắc; Otto buông thả, đắm say (Ngàn cánh hạc). Khắc họa chân dung nhân vật nữ, Kawabata thường chộp lấy những khoảnh khắc bừng sáng của vẻ dẹp. Trong tiểu thuyết Xứ tuyết, Shimamura bất ngờ phát hiện đôi mắt và khuôn mặt phụ nữ phản chiếu trên tấm kính cửa sổ toa tàu. Vẻ đẹp "ảo ảnh", "'huyền diệu lạ kỳ" ấy làm anh bàng hoàng sửng sốt, để rồi khoảnh khắc ấy của cái đẹp đã in dấu ấn sâu đậm trong suốt cuộc đời anh. Yôko là cái bóng mỏng manh, mờ ảo nhưng mỗi lần tiếp xúc với Yôko là mỗi lần Shimamura khám phá thêm một nét đẹp ở cô. Vì vậy Shimamura say đắm Komako nhưng trong anh luôn hiện diện thứ ánh sáng diệu kỳ lóe lên từ Yôko. Còn Kikuji mặc dù đam mê Otto, yêu tha thiết Fumikô nhưng hình ảnh Yukiko - "cô gái có cái túi nhiễu màu hồng đào in hình những cánh hạc trắng rập rờn” vẫn thường xuyên nhói lên trong ý nghĩ của anh.
Nhân vật của Kawabata thường đắm chìm trong thiên nhiên, hòa đồng với thiên nhiên bằng thế giới tâm hồn của mình. Thiên nhiên là một yếu tố thẩm mỹ. Tác phẩm của Kawabata thể hiện nét dẹp truyền thống Nhật Bản. Đó là sự thấu thị về tự nhiên, sự tương giao giữa nội tâm và thiên nhiên, sự giao tiếp với thiên nhiên như một thực thể sống. Xứ tuyết chính là những gam màu của hội họa truyền thống phương Đông. Xứ tuyết là sự tương hợp toàn bích giữa "cõi Trời, cõi Đất và cõi Người" (5), là nơi "giữ nguyên được những cảnh sắc, con người, phong tục, lối sống của một vùng đất mà sự hồn hậu, chân phác của Trời-Đất và Người như còn giữ được nguyên vẹn (6). Xứ tuyết còn là sự xóa nhòa ranh giới giữa cõi sinh và cõi tử, giữa cái hữu hạn và vô hạn, cái thường nhật và cõi vĩnh hằng. Thiên nhiên vũ trụ ấy là nguồn nuôi dưỡng khát vọng về hạnh phúc và tình yêu. ÚÃ đó con người dường như đạt tới sự tự do về tinh thần, nơi con người cảm thấy tĩnh tâm và bình yên.
Thể hiện quan niệm về vẻ đẹp của vũ trụ, Kawabata thường sử dụng những hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng. Không phải ngẫu nhiên mà hình tượng tấm gương và những biến thái tương đồng của nó được lặp lại rất nhiều lần trong các tác phẩm mang ý nghĩa triết lí về cái đẹp. Trong Ngàn cánh hạc là hình tượng bình sứ Shinô, cặp chén Raku, là cái chén uống trà trên miệng chén còn in vết son môi của người phụ nữ khuất bóng. Vết son môi được thể hiện nhiều lần như một kí hiệu thẩm mỹ. Trong quan niệm thẩm mỹ của người Nhật có một nét rất đặc biệt. Theo Dêênitirô, Tallidaki, người Nhật "thích hơn những cái có độ bóng chìm sâu chứ không phải là sự sáng sủa bề ngoài”. Đó là sự lấp lánh nhưng dưới một lớp mỏng mờ đục - đó là độ bóng của thời gian hay nói chính xác hơn là "vấy dầu mỡ". Người Nhật "thực sự thích những đồ vật mang trên đó dấu vết của thân thể con người, lớp muội dầu mỡ, vẻ phong hóa và sự dầu dãi gió mưa" (7). Trong Xứ tuyết tác giả sử dụng một loạt những biểu tượng cùng hệ thống: tấm kính cửa sổ toa tàu, chiếc gương soi, tuyết, lửa, ngân hà - nơi lưu giữ những hoài niệm, nơi phản ánh vẻ đẹp nguyên sơ và huyền bí của thiên nhiên. Trong truyện ngắn Thủy nguyệt là hình ảnh hai chiếc gương con, là vầng trăng đáy nước. Trong quan niệm của Kawabata cái dẹp không tách rời cái hư ảo. Thiên nhiên được phản chiếu trong tấm gương dường như còn đẹp hơn thế giới thực tại. Đối với người chồng đang ốm nặng của Kiôkô thế giới trong gương có vẻ còn thực hơn, đẹp hơn chính khu vườn. Và khi Shimamura ngắm nhìn cảnh vật phản chiếu trên tấm gương "trong tâm trạng ngất ngây mơ mộng, anh dễ dàng quên mất rằng thế giới con người đã tác động vào trò chơi những phản chiếu bồng bềnh và những hình ảnh kì lạ đã làm anh say mê. Không, cửa kính của toa tàu mà màn đêm đã biến thành một tấm gương hay cái gương tràn ngập màu trắng của tuyết không còn là sản phẩm của bàn tay con người nữa... Một nửa thuộc về chính thiên nhiên, một nửa kia thuộc về một thế giới xa xôi nào đó. Một vũ trụ tồn tại ở nơi khác".
Bằng trực giác tinh nhạy của một người nghệ sĩ luôn run rẩy trước cái đẹp, Kawabata đã nắm bắt từ vũ trụ, cuộc sống, con người... cả những gì mà lí trí khó với chạm. Thế giới bên ngoài, thế giới nội cảm dường như nhòe mất đường ranh. Thiên nhiên trong tác phẩm Kawabata là biểu tượng tâm thức con người phương Đông. Qua khát vọng giao hòa với vũ trụ đất trời, bằng "nghệ thuật trực cảm”, bằng "thẩm mỹ trực giác" Kawabata thể hiện một quan niệm của người phương Đông về tự nhiên "vạn vật hữu linh", "vật ngã đồng nhất". Giáo sư Chu Quang Tiềm trong Tâm lý văn nghệ,. mỹ học hiện đại, đã lí giải: "Trong kinh nghiệm mỹ cảm, sự giới hạn giữa ta và vật hoàn toàn bị tiêu diệt, ta như chìm đắm vào thiên nhiên, còn thiên nhiên lại trở lại nhập vào tận đáy hồn ta " (8)
3. "Mác đã gọi tình cảm đối với cái đẹp là tiêu chí khu biệt quan trọng của con người, còn hoạt động thực sự của con người là sáng tạo theo qui luật cái đẹp” (9) Dostoievski với niềm xác tín "cái đẹp sẽ cứu rỗi nhân loại", Pautovski xem "Thái độ dửng dưng thờ ơ với cái đẹp là một thứ bệnh ung thư gặm nhấm làm khô cứng hủy hoại tâm hồn con người". Kawabata đã có sự gặp gỡ, đồng điệu với những bậc thầy sáng tạo nghệ thuật trên hành trình đi tìm cái đẹp. Lộ trình ấy không bao giờ đơn độc, dẫu có lúc Kawabata tự nhận mình là "người lữ hành ưu sầu"...

LÊ THỊ HƯỜNG
(nguồn: TCSH số 154 - 12 - 2001)

--------------------------------------------------
(1), (2) E.M D' Jakonova. Truyền thống và cách tân trong tiểu thuyết Nhật Bản. (Thanh dịch). Trong Một số vấn đề tiểu thuyết hiện đại. UÃy ban khoa học xã hội Việt .
(3)
Nhật Chiêu, Bashô và thơ Haiku. Nhà xuất bản văn học, Khoa ngữ văn và báo chí đại học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 1994.
(4), (7)
V.V Trinnicốp. Những quan niệm thẩm mỹ độc đáo về nghệ thuật của người Nhật. Tạp chí văn nghệ, số 5/1996.
(5), (6)
Ngô Văn Phú (người dịch). Lời bạt nhân đọc Xứ tuyết. Trong Xứ tuyết. Kawabata, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1995.
(8)
Chuyển dẫn từ Lê Trí Viễn. Đôi nét về thẩm mỹ Việt . Tạp chí Văn học, số 4/1998.
(9)
B.A.E Ren Gross. Mỹ học – khoa học diệu kỳ. (Phạm Văn Bích dịch). Nhà xuất bản Văn hóa. Hà Nội 1984.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VÕ THỊ XUÂN HÀVào rằm tháng Giêng năm 2003 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, Ngày Thơ Việt Nam lần thứ nhất được tổ chức long trọng. Mở đầu bằng lễ kéo Lá cờ Thơ, rồi ngâm đọc bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh. Sau đó là các chương trình giao lưu thơ với công chúng, đọc những bài thơ hay nhất của đất nước, ngâm thơ, bình thơ v.v…

  • VÔNG VANGCó thể nói cùng với chiều dài lịch sử của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân, không thể và không khi nào mà khi nói đến nơi đây người ta lại không nhắc đến Thơ. Bởi vì ngoài “nhiệm vụ” là một bức thông điệp giúp cho ta biết hơn về lịch sử, về con người, Thơ còn giúp ta hiểu hơn về chính nó, về một ký ức lãng đãng đang trôi qua từ thẳm sâu trong trí nhớ, trong cái thăng hoa luân chuyển của vũ trụ và của chính con người.

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc “Thơ của người cô độc” tập thơ của Tường Phong, NXB Thuận Hóa xuất bản)

  • TRẦN HỮU LỤCChân dung Huế (*) - tập bút ký nhân vật, là một trong 12 đầu sách liên kết giữa Tủ sách Nhớ Huế với NXB Trẻ.

  • BÍCH PHƯỢNG thực hiệnLTS: Trong dịp vào Huế thực hiện một số phim trong chương trình “Người của công chúng” (Đài Truyền hình Việt Nam), nhà báo Bích Phượng đã có dịp tìm hiểu tác phẩm, gặp gỡ trò chuyện với nhà văn Nguyễn Khắc Phê tại ngôi nhà vuờn xinh đẹp của ông trên đường Xuân Diệu. Ông đã trả lời một cách cởi mở và thẳng thắn những vấn đề đặt ra.

  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.

  • LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.

  • TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ  chức.

  • HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.

  • LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.

  • LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)

  • TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...

  • MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.

  • BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.

  • NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.

  • NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.

  • NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.

  • PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.

  • BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.