Một mặt hướng ra đường chính thông lên cây cầu hơn trăm năm tuổi, một mặt hướng ra đường bê tông rộng dẫn xuống khu nghỉ dưỡng cao cấp, mặt còn lại hướng ra bờ sông thông thống gió. Trước căn biệt thự trồng cơ man điệp là điệp, cứ tới độ tháng ba tháng tư hoa vàng rơi miên mải. Quanh tường rào khu biệt thự huỳnh liên rực bốn mùa, từng chùm rộ nở bất kể xuân hạ, bất kể nắng mưa, thứ hoa dễ trồng dễ chăm. Dọc theo tường rào ngay phía bên trong là từng chùm muồng hoàng yến rủ xuống mê hoặc, thứ màu vàng trong suốt ấy tưởng như soi được. Gốc bông giấy đồ sộ sần sùi án ngữ ngay cổng ngôi biệt thự, dĩ nhiên hoa cũng vàng. Vài chậu huỳnh anh nằm dọc lối sỏi dẫn vào cửa chính của căn biệt thự. Ngay thềm hiên một chiếc xích đu trắng tinh khiết hình tổ chim với chiếc gối thêu hoa tỉ mẩn. Nhìn căn biệt thự được sơn trắng, chăm chút từng góc nhỏ đủ biết chủ nhân là người khó và kỹ tính.
Với 3 tầng lộ thiên, 1 tầng hầm dùng để xe ở cái thời đất cát đắt đỏ, sức chứa phải hàng chục người nhưng lạ chưa, ngôi biệt thự cứ như một cô gái bị bỏ bùa chưa tìm được thuốc giải nằm ngủ miên man, mặc hoa cứ vàng, mặc sông cứ chảy, và mặc xe cộ dọc ngang. Lâu lắm người ta mới thấy một cô gái thắt đáy lưng ong, váy trắng tinh khiết, tóc thả lơi mê hoặc ngồi trên ban công mặt hướng ra bờ sông lộng gió. Thường ngày thì vẫn gặp vợ chồng mụ quản gia không con vào ra chợ búa cơm nước, tưới tắm cây cỏ. Họ sống âm thầm không giao thiệp. Cây trái trong vườn chín nẫu kéo bầy chim về ríu rít. Họ làm bạn với chim và hoa.
Lại nói về cô gái, thú thật chưa ai nhìn rõ mặt. Thi thoảng có chiếc xe bốn chỗ sang trọng chui tọt vào trong cổng hoa vàng rồi lẳng lặng đi ra lúc nào không ai hay. Dân ở đây chẳng ai đủ rảnh rỗi để bàn tán về ngôi biệt thự, thứ họ quan tâm là gạo bao nhiêu một ký, ga lên giá, điện lên giá, ngày ni ế ẩm hay đắt đỏ, rứa thôi. À thật ra thì mọi người có quan tâm tới ngôi biệt thự vào mỗi đận ông chủ từ Mỹ về, lúc đó cả làng như mở hội vì ông khá hào phóng. Ông cho gạo người nghèo, cho tiền người già và trẻ em, ông cho quà người khó khăn, nghĩa là ông cho tất. Nhưng theo như mọi người nhẩm tính thì phải đến bốn năm ông mới lại về, đều đặn như Euro hay World Cup chi đó, không lệch một tháng nào. Nhưng kể cả những lúc ấy thì cũng chẳng thấy mặt con gái ông. Có người còn ác mồm ác miệng bảo cô gái ấy là vợ bé bị ông điểm chỉ do tư tình với người tài xế trẻ, cũng có người cho rằng cô gái ấy là con riêng của ông và bị trầm cảm. Riêng vợ chồng người quản gia thì cứ như bị ai cắt mất lưỡi. Té ra ông quản gia câm thiệt còn vợ thì điếc.
Gã đánh cá dừng chân bên cây cầu, từ góc này nhìn xuống hai bên bờ mướt một màu xanh, lấp ló đâu đó những sắc hoa chuẩn bị cho mùa lễ hội, vài chiếc ghe bơi nhè nhẹ, dòng nước loang trong màu chiều những tia nắng mềm óng ánh. Chiếc rớ được kéo lên khỏi mặt nước nằm chênh vênh, vài búi lục bình dạt theo gợn sóng từ chiếc ghe máy vừa đi qua. Gã nhìn xuống chân cầu nơi chiếc ghe nhỏ của cha đang neo chơi vơi. Vòm ngực rộng, chòm râu trắng, những thao tác nhanh nhẹn là những gì người đời nhìn thấy từ ông. Ông lão khề khà pha một ấm trà đậm, đặt lên chiếc bàn con được chế từ mảnh gỗ có đường vân kỳ lạ hai chiếc chén nhỏ lạ mắt, xong thò tay vào chiếc túi để sát mép ghe lôi ra một gói nhỏ sặc một thứ mùi quen thuộc. Thuốc nguyên lá. Chiêu một ngụm trà, rít nhẹ hơi thuốc, ngửa cổ nhìn mây và nghe nước liếm nhẹ qua mạn ghe mơn man. Ông mặc nhiên chấp nhận việc có thêm một nhân khẩu mà không hỏi căn cớ. Ông lão khật khà, cũng muốn con bươn bả cho biết vị đời, nhưng ông còn lạ gì đời, lạ gì tính nó.
Thi thoảng ông nhìn con trai rồi cười nhẹ, sớm thôi, chiếc ghe này sẽ thuộc về nó hoàn toàn. Bấm đốt ngón tay, ông nhẩm tính còn bao ngày dương thế. Cứ thiêu rồi rải tro cốt ta xuống dòng sông này là được con ạ! Sống chết một đời thong dong thôi.
Dòng Nguyệt Giang nẫu tím, xa xa những cụm mây đan vào nhau sắc huyền bí mê hoặc. Màu xanh da trời quyện màu đỏ bầm của ánh dương khi “đưa chiều vào tối” làm cảnh sắc thêm mơ màng. Bóng cây ngả bên bờ sông bao hình thù kỳ quái, rờn rợn. Cầu Triệu Thương ẩn hiện trong dải màu ảo diệu như sống lưng của một kình ngư. Thiên nhiên như gã họa sĩ tài hoa tạc vào nền trời những nét chấm phá siêu thực. Hai người đàn ông, hai thế hệ có chung niềm cảm quan về đời, về người. Họ nhận ra sau rốt tất thảy cũng chỉ là thứ phù du ảo ảnh. Kẻ nhận bổng lộc triều đình, tranh thủ vơ vét rồi cũng ở chung một ngôi nhà đá làm bằng hoa cương có cảnh vệ phòng mật, diện một loại thời trang kẻ sọc, cùng mang chiếc lắc bạc cao cấp… Anh chàng sợ quá trả chức từ quan.
Những mẻ cá đánh được vừa cập bến đã có người mua, hai cha con lại rong ghe tìm nơi mát mẻ neo đậu. Trên là bóng cây, dưới là mặt nước, xung quanh mênh mang bao la. Sớm sớm đón ánh mặt trời, hít thở thứ không khí trong lành vẹn nguyên từ vũ trụ, ngắm mây trời sông nước, thong dong mây gió tiêu sầu, có gói nghỉ dưỡng nào cao cấp hơn.
Từ ngày cha khuất núi, chàng đánh cá lại một mình rong ruổi, thi thoảng nhìn những bộ cánh sang trọng, sơ vin nai nịt gọn gàng, miệng xun xoe khúm núm, chàng lại cười thầm. Chàng sợ những nhịp đập thùm thụp hối hả nơi quả tim đã có dấu hiệu thòng vì làm việc quá sức. Mục đích cuối cùng của một đời người là gì nhỉ? Là sống thôi. Sống vui. Sống hạnh phúc.
Chàng thường neo lại nơi dãy điệp vàng rộ nở cả quãng sông nương bóng, ngỡ ngàng nhận ra thiếu phụ từ căn biệt thự hoa vàng thường ngày vẫn dõi mắt xa xăm. Chàng đâm bối rối khi mắt chạm mắt nàng. Ánh nhìn ấy, trang phục ấy, cả phong thái ấy, đích thị nàng từ một thế giới khác, thế giới của những cô tiểu thư Châu Âu với phong cách thời trang cổ điển.
2.
Bằng một cách nào đó, nàng, cô tiểu thư đài các ấy đã vượt rào ngồi khép nép ngay mép ghe, tà váy trắng lướt thướt lấm lem, mảng ren vướng đinh rách nhẹ, sợi chỉ hồng nhạt se se nơi tay. Cả hai nhìn nhau bật cười, như thể thân nhau từ muôn kiếp trước. Chàng đẩy nhẹ tay chèo, chiếc ghe từ từ rẽ sóng nước. Sợ không? Chàng hỏi. Lắc đầu. Lọn tóc lúc lắc. Hai tay bám chặt mạn ghe. Chàng nhìn nàng, mái tóc lòa xòa che vầng trán cao, khuôn miệng thanh tú chúm chím, sống mũi vừa phải, làn da trắng mỏng vài nốt tàn nhang nơi gò má, đôi môi hồng nhạt… Một phút chòng chành, chiếc ghe hơi chao khiến nàng ú ớ. Chàng bật cười nắm lấy tay chèo, rẽ nước mà tiến. Phía trước là sông, sau lưng là sông, hai bên bờ cây cối tươi xanh, bóng đổ xuống lòng sông mênh mông.
Nàng theo chàng lang thang qua các nhánh sông nhiều chiều như thế. Sông vẫn chảy đời sông. Chàng mải mê dong ghe muôn ngả. Nàng chỉ ghé tạm một quãng đời ngắn vào mỗi chiều tà. Đêm xuống, khi sương giăng ướt tay dầm, vạt áo trên vai chàng bị gió tạt mềm và ngai ngái sương đêm, khi tóc nàng đã tơi ra trong gió và tà áo cũng sũng sương, lúc này, chiếc ghe mới quay về, tạt mũi vào gốc cây sưa già cho nàng lên bờ. Sợi dây thừng lúc lắc, nhoáng cái nàng đã ở tít lầu ba, miệng nhoẻn cười tinh nghịch.
Mạn dưới con sông đang vào mùa lễ hội, chàng ngỏ lời mời nàng thưởng trăng. Nàng đã mơ hồ mường tượng, nhưng nàng rất sợ người. Chàng mỉm cười, con người, sau rốt cũng chỉ là những sinh vật hiền lành, dễ mến, và vô hại.
Đêm chòng chành. Trăng ngả nghiêng bóng nước. Mái chèo trôi xuôi. Gió lồng lộng thổi. Tóc nàng ủ sương rười rượi trăng đêm. Chiếc ghe miên man nghe gió tạt thông thống. Là tóc hát, là sương hát, hay là trăng, là đêm? Cồn đất nhỏ nhô lên giữa đôi bờ, vạt lau xao xác gió, những khóm hoa đăng mắc lại nơi bụi cỏ, dềnh dàng. Chàng nắm tay nàng vượt qua bờ lau bạt gió, nghe sương đọng vũng trên lá cỏ, nghe trăng ướt mềm như vừa qua một trận nổi nênh. Trên đầu, vạt sưa già in bóng nước, cành to khỏe vươn xa bao trùm cả một vùng rộng lớn. Chàng ghé tai nàng thủ thỉ, trưa mai, khi nắng vàng lên các con phố, khi sưa đủ nắng, đủ gió, đủ ủ ê của đất trời sẽ nghe được làn hương nhẹ thanh khiết của hoa. Sưa là loài kỳ lạ, cứ phải qua nắng gió, cứ phải qua mưa dầm, qua những ngày đất trời sụt sùi dông gió hoa mới đủ hương, sắc mới thắm vàng.
Nàng lặng lẽ rời cung điện của riêng mình, vượt tường cao vách sâu cùng chàng trên chiếc ghe con con rẽ nước. Hai bên bờ sông lặng ngắt như tờ, thi thoảng một chú cá ngoi lên đớp bóng nước, vảy bạc lấp lánh trong nắng trưa. Cồn cỏ nằm cô độc bên mé sông dưới tán sưa dày rợp bóng. Chàng loay hoay đan một quầng cỏ làm chỗ ghé ngồi. Như cô công chúa nhỏ trong vườn cổ tích, mắt nàng mở to, đôi môi hồng chúm chím đón đợi. Một cơn gió lùa qua, những đóa sưa đồng loạt buông mình, hoa vàng theo gió bay lả tả. Nàng nhắm nghiền mắt đón lấy cơn mưa hoa. Sưa đậu trên má, sưa vờn trên tóc, sưa hững hờ bờ vai mảnh, sưa âu yếm gò má hây hây. Nàng quay người, chiếc váy xòe xoay tít, vụn hoa lả tả rụng rơi. Trong giây phút cuồng quay ấy, nàng thấy mình của những năm tháng trước; ngôi nhà, bố mẹ, những bữa cơm đầm ấm, chú chó nhỏ phủ phục bên chân, gã mèo biếng lười bên cây dương cầm cổ… phút chốc mọi thứ ẩn rồi hiện. Nàng buông tay người đánh cá, lại xoay tiếp mấy vòng, đôi hài dưới chân như có phép màu cuốn những bước nhảy của nàng theo một điệu slow mê hoặc. Đôi vai vạm vỡ nắng gió, những bước đi uyển chuyển như một vũ công, đôi mắt sáng quắc chợt mơ màng… và gió. Gió mang làn hương lạ về ngôi biệt thự, một mùi hương nhẹ thoảng, mùi của rong rêu, mùi của những chuyến ghe vượt thác ghềnh. Trong giấc mơ màng, nàng nghe mùi của đại dương xa xôi tìm về ẩn trong sắc vàng miên mải…
3.
Lâu rồi không ai nhắc đến nàng tiểu thư váy trắng điệu đà. Căn biệt thự hoa vàng bị bỏ quên từ những mùa đông năm trước. Chiếc ô tô trắng không còn ghé lại, ông chủ giàu có cũng chẳng về. Vợ chồng lão quản gia lặng lẽ rời đi, không ai hay biết tung tích. Dường như mọi thứ biến mất như một cơn ác mộng. Thi thoảng ở bến sông này, người ta bắt gặp một chiếc ghe con đậu dưới tàn sưa vắng, người vợ mải mê vá lưới, chốc chốc đưa tay cọ cọ mái đầu, nhoẻn cười hiền nhìn người đàn ông bạc màu gió sương. Chẳng ai nhớ tên thánh của người đàn bà ngày còn là tiểu thư khuê các.
Có người đồn, ngôi biệt thự là nấm mồ sống của nhiều linh hồn, họ lẩn khuất giữa những tàn dư. Vào mấy đêm trăng vời vợi, bóng cây in xuống mặt sông vệt nhòa mờ ma quái, những chiếc áo trắng kiêu kỳ thưởng trăng, khiêu vũ. Dòng Nguyệt Giang miên man chảy, loang trong sương đêm, cầu Triệu Thương nhòa ánh trăng mờ. Cũng có người bảo đấy chỉ là ảo ảnh mà mắt trần đôi lúc quáng quàng nhìn gà hóa cuốc. Không biết thực hư thế nào, chỉ biết thiếu phụ không về lại căn biệt thự cũ lần nào, cũng chẳng ai còn nhớ nàng từng là cô tiểu thư điệu đà và những chiều mộng mơ bên ô cửa. Dường như mọi thứ đã vào quên lãng, hay có chăng, đôi lúc, nàng cùng chàng đánh cá trở về, ngồi bên mé sông, lắng nghe câu chuyện ngàn năm từ phiến đá cũ. Chẳng ai trả lời họ phiến đá có buồn, cũng chẳng ai biết hàng điệp vàng khi nào rụng lá. Những người từng quen trong cuộc đời đôi khi lướt qua nhau như những chiếc bóng, rồi nhẹ nhàng hoà vào hư vô. Giữa mộng giữa thực, bóng mây bóng người tan vào tàn cây hư ảo.
H.L
(TCSH435/05-2025)
NGUYỄN VIỆT HÀCó một ngày rất âu lo đã đến với thằng béo. Bụng bồn chồn tưng tức, giống như đang ngồi giữa một cuộc họp trang trọng bỗng mót tiểu tiện mà không thể đi. Trước đấy hình như duy nhất một lần cái cảm giác bất an này cũng đã đến. Láng máng không thể nhớ.
MA VĂN KHÁNGKhi những người U Ní ở vùng biên sau mấy tháng trời đông giá, ngồi trong nhà đánh cuốc, sửa dao, đan lát bước ra khỏi căn nhà đất dày kín như cái kén, đặt chiếc vai cày lên cổ con trâu, đi những đường cày đầu tiên, hoặc rủ nhau đi bán công khắp các nơi trong vùng thượng huyện Bát Xát, thì hoa gạo bắt đầu nở.
PHAN TUẤN ANH- Anh ơi lên xe đi, xe chạy suốt Bắc Nam đấy.- Có đi Vinh hả anh, bao nhiêu tiền vậy?- Ôi dào! mấy chục ngàn thôi, lên nhanh đi anh ơi.
HOÀNG THỊ NHƯ HUYĐiện thoại di động trong túi rung lên báo tin nhắn đến, Luân uể oải mở ra xem. Khuya rồi sao còn ai nhắn tin nhỉ? Một số máy lạ với một dòng tin lạ hiện ra: “Bạn ơi tôi không biết bạn là ai nhưng tôi muốn bạn biết tôi sắp lìa xa cuộc sống này. Tôi đang tuyệt vọng”.Đúng là đồ khùng! Đồ dở hơi!
HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm... Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.
NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.
VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…
TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.
ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.
ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.
VŨ NAM TRỰC Truyện ngắn
TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.
NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...
HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.
PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.
NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.
CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.