Hương vị của chân lý

09:11 07/11/2009
YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

Nhà văn Bondarev - Ảnh: sovlit.com

Trong những năm cải tổ và hậu cải tổ, Bônđarép đã bộc lộ mình như một người yêu nước chân chính, dám dũng cảm phê phán những sai lầm tệ hại dẫn tới sự sụp đổ của cường quốc Liên bang Xô Viết, những khuynh hướng tiêu cực mang đậm màu sắc xã hội như vấy bùn vào quá khứ oanh liệt của dân tộc, miệt thị chiến công vĩ đại và những hy sinh lớn lao của nhân dân Liên Xô để cứu loài người thoát khỏi sự thống trị của chủ nghĩa phát xít Đức, những mưu toan bôi đen nền văn học Xô Viết quang vinh vốn được cả thế giới thừa nhận cũng như sự sùng bái phương Tây một cách mù quáng.

Năm nay nhà văn Bônđarép tròn 75 tuổi, nhưng ông vẫn sung sức và say sưa sáng tạo với một ngọn lửa nhiệt tình không suy giảm của người chiến sĩ pháo binh năm xưa và với đòi hỏi rất cao về chất lượng nghệ thuật đối với bản thân mình. Nhân dịp này, chúng tôi xin giới thiệu một số trang nhật ký mới nhất của ông thể hiện rõ bản lĩnh và nhân cách của một cây bút cự phách rất đáng trân trọng này.



Ôi, tôi muốn trung thành biết bao với chiếc bàn viết, với tờ giấy trắng vốn quyến rũ tôi bằng sự hứa hẹn các chuyến viễn du đến những miền đất lạ của thế giới tinh thần, vào cõi bí ẩn của ngôn từ vốn có khả năng trở thành mầu nhiệm, tức là có khả năng chữa bệnh, an ủi đồng thời gây tổn thương sâu sắc. Vào thời kỳ sáng tác cần phải sống hoà thuận với chính bản thân mình. Đó cũng là niềm hạnh phúc nhưng nó không thể có được trên mảnh đất này.

Tôi rất biết ơn nền văn học Nga vĩ đại vì nó đã bồi dưỡng tôi trở thành một người học trò trung thành. Tôi không bao giờ thay đổi lòng yêu mến của tôi đối với các tác phẩm cổ điển.

Trong vòng hai mươi năm nay tôi đã viết được: "Bến bờ", "Trò chơi", "Cám dỗ", đó dường như là những cuộc viễn du tinh thần của tôi,là sự tìm tòi không cùng về ý nghĩa của tồn tại mà tôi từng suy ngẫm một cách đau khổ sau khi đã xài hết phần lớn cuộc đời mình. Có lẽ tôi đã hoàn thành bốn bộ tác phẩm về giới trí thức bởi vì qua các nhân vật của nó ( Nikitin, Vaxiliép, Crưmốp, Đrôdơđốp) và hầu như qua tất cả các quân nhân và các nhân vật hiện đại, tôi đã đi tìm chỗ dốc bầu tâm sự của mình.

Sau những bài báo của tôi và nhất là sau bài nói chuyện của tôi trước công chúng vào năm 1987 chống lại những biện pháp hết sức thiếu suy nghĩ và hời hợt đến mức không thể tha thứ của công cuộc cải tổ ( hình tượng chiếc máy bay và đường băng hạ cánh không tồn tại), giới báo chí quá khích của chúng ta đã hăng hái xé toạc chiếc áo sơ mi của tôi và điên cuồng chửi mắng tôi, cho tôi là phần tử bảo thủ và khó hiểu. Tôi không muốn làm cái việc bác bỏ điều đó bởi vì tôi ngờ rằng quả thật tôi khó hiểu đối với những kẻ bằng trò ma giáo của từ ngữ và bằng sự dối trá đã và đang làm băng hoại nước Nga nhằm đưa nó tới chỗ bần cùng hóa thảm hại và tới sự ô nhục ê chề.

Nền văn học Nga lớn lao vẫn còn có ảnh hưởng trong xã hội hiện nay vốn bị tràn ngập bởi nạn dịch suy đồi  đạo đức. Tuy vậy, bất chấp tất cả những điều đó, vẫn còn lai sự minh triết của đất trời tức là sức mạnh của cái đẹp. Có đúng thế hay không? Vấn đề là ở chỗ cái đẹp dường như là một  phạm trù mang tính chất thời gian. Nó nở rộ, đắc thắng, biến cải và tàn phai trong thiên nhiên và trong bản thân con người. Duy chỉ có chân lý, sự công minh và điều thiện là mãi mãi đẹp tuyệt vời. Nếu như tôi tin vào những cái đó thì như thế có nghĩa là  tôi tin vào sức mạnh của cái đẹp. Tôi sẽ tin vào sự hữu ích hoàn toàn của khoa học khi nào nó mang tính chất đạo lý, khi nào nó tuyên thệ sẽ phục vụ vô giới hạn cho con người chứ không để tiêu diệt con người. Hiện nay hãy còn tám mươi phần trăm khoa học là phi đạo lý.

Có biết bao nhiêu lần tôi đã phải đọc về " lễ cầu siêu", về " lễ mai táng" và " lễ truy điệu" nền văn học Xô Viết, về " sự chôn cất may mắn", về " tích chất phế thải của nền văn học và nghệ thuật", về  sự khao khát từng phạt sự phế thải đó, về sự khao khát trả thù đối với những người hoàn toàn không tin vào Chúa. Ở đây có biết bao nhiêu lòng căm ghét, bực tức, sự bất lực, sự bẩn thỉu ô uế phát ra từ lỗ miệng được rửa ráy cẩn thận cũng như không được rửa ráy chủ yếu là của các nhà văn và các nhà phê bình, có biết bao nhiêu sự hằn học phẫn nộ vì không có được tiếng tăm, không được nhận nhuận bút, không được tặng những tấm huân chương, những giải thưởng - đó là sự trả đũa vì sự bất tài của chính mình, sự thất vọng dường như do khả năng không được sử dụng, và nổi bật trong tất cả những cái đó là thói ghen đố kỵ đối với sự thành đạt cao nhất của tài năng.

Giữa thanh thiên bạch nhật người ta có thể bác bỏ tất cả, thậm chí có thể phủ nhận rằng nước là ẩm ướt, còn mầu tím thì không phải bao giờ cũng là màu đỏ. Khi có một nhà lý luận dởm lếu láo nào đó với thái độ khinh miệt phán rằng" nền văn học Xô Viết là cái lỗ đen ngòm" thì điều đó khiến ta bật cười ( chứ không phải chỉ riêng nhà thiên văn học) bởi lẽ trong cái định nghĩa mang tính chất thiên văn học như vậy của nhà lý luận dởm thấy rõ sự khiếm khuyết hoàn toàn của lô gic và của trí tưởng tượng về hình tượng. Như mọi người đều biết, "cái lỗ đen ngòm" có một sức mạnh phi thường, nó thu hút vào bản thân nó những thể vũ trụ có quy mô cực lớn. Đúng vậy, "cái lỗ đen ngòm" trên bầu trời đó đã hút vào nó những đại lượng lớn đến mức ta muốn ca tụng để đền ơn đáp nghĩa tất cả các vị thánh thần. "Cái lỗ đen ngòm" đã tạo nên "thời hoàng kim của nền văn học Xô Viết" vốn đã trở thành nền văn học hàng đầu của thế giới. Vào ngày phán xử cuối cùng, có thể đặt bộ tiểu thuyết "Sông Đông êm đềm" của Sôlôkhốp trước đức Chúa để biện giải cho nghệ thuật ngôn từ của thế kỷ XX. Năm tên tuổi thiên tài cũng đủ để làm nên một nền văn học vĩ đại của bất cứ một nước nào. Tôi có thể kể ra nhiều hơn nữa, nhưng tôi chỉ nêu lên một số cái tên: Gorơki, Xécgheép Xenxki, Êxênin, Maiacốpxki, Sôlôkhốp, Lêônốp, V. Siscốp, Bungacốp, A. Tônxtôi, Tvácđốpxki, Paxtécnắc. Và tôi còn có thể với lương tâm trong sạch bổ sung thêm hàng chục cái tên khác của các nhà văn hiện đại mà những tác phẩm làm vinh dự cho bất cứ một nền văn học nào của thế giới.

Không phải là một người quá tự tin ( để lấy điều mong muốn làm chân lý), tôi thiết nghĩ rằng đạo lý xã hội về nhiều mặt vẫn cứ dựa trên một nền văn học lớn cũng như những bất hạnh và niềm vui của chúng ta phụ thuộc vào sự liên kết của những cá tính khác nhau, tức là vào từng con người riêng biệt và vào tất cả mọi người gộp chung lại. Một kẻ đơn thương độc mã ngoài chiến trường đâu phải là chiến binh. Và nếu như tôi biết rằng tôi viết những cuốn tiểu thuyết ở chốn hoang vu, giữa cõi hư vô thì tôi đã đình chỉ ngay cái nghề này và coi nó là thứ trò chơi của chữ nghĩa.

Việc viết tiểu thuyết - đó là lối thoát ra khỏi cảnh cô độc để hòa nhập với mọi người, là lối thoát và niềm hy vọng rằng anh sẽ nhận được làn sóng hồi âm. Đồng thời cuốn tiểu thuyết - đó là bức thư trong chiếc chai gắn kín được quẳng xuống đại dương. Đó là bức thư về mối tai họa và cũng về kho báu được tìm ra.

Tôi viết lâu bởi vì tôi thuộc loại người bảo thủ, hoặc như thiên hạ nói, thuộc loại " ngựa kéo", hiểu theo nghĩa tôi ngồi trau chuốt từng câu, từng âm tiết, từng dấu chấm, dấu phẩy mà từ đó hình thành nên phong cách và hình thức. Và lần nào tôi cũng trông đợi vào sự hiểu biết của người nhận được bức thư được vớt lên giữa đại dương mênh mông của cuộc sống chúng ta. Có thể tôi sẽ thuyết phục được một ai đó suy ngẫm về những xung đột vĩnh hằng "có và không" cộng" và "trừ", "ánh sáng và bóng tối", "cái thiện và cái ác", " tình yêu và lòng căm thù", "cuộc sống và cái chết" và tìm ra thái độ của mình đối với mọi cái đang tồn tại.

Những thiên tài vĩ đại như Hômêrơ, Sếchxphia, Bandắc, Betôven, Tônxtôi, Dôxtôevski, Gôgôn, Chaicốpxki, về thực chất, đều nói lên một điều về con người trong lịch sử, về sự vận động của lịch sử trong con người, hay đều sử dụng một cốt truyện đáng kể nhất của đức chúa Giêsu. Lý tưởng của họ là con người có sức mạnh tinh thần tạo nên cái thiện và cái đẹp. Nhân vật "chính diện tuyệt vời" như vậy mà Gớt đã suy nghĩ khi kết thúc "Phaoxtơ" , mà Đôxtôépxki đã mơ ước trong "Nhật ký" của mình, chưa được tạo ra. Họ biết rằng sự thật và trò bắt chước sự thật không phải là những từ đồng nghĩa. Đôxtôépxki đã dành trọn cuộc đời mình cho ý tưởng tìm Chúa trong bản thân mình và bên ngoài: tội lỗi và sự ăn năn hối hận, tội lỗi và sự cám dỗ, thông qua những đau khổ để đi tới tình yêu.

Cuốn sách - đó hoặc là sự hòa hợp giữa tác giả và độc giả, hoặc là trận kịch chiến, mà trong đó dù chiến thắng hay không chiến thắng, dù chấp nhận hay phủ nhận những tư tưởng của tác giả, độc giả học được cách cảm thụ và tư duy và có được sự nhận thức.

Những từ "nếu như" trong câu chuyện về lịch sử bao giờ cũng toát lên một cách không nghiêm túc và cũng không hiện thực, giống như câu chuyện tầm phào lúc trà dư tửu hậu. Nhưng nếu như xuất hiện tình huống năm 41 thì tôi quyết không muốn để số phận điều khiển tôi theo cách khác. Tôi không hề tiếc bất cứ một ngày nào của thời trai trẻ trong quân ngũ của tôi. Tôi là một người lính bình thường nhất trong đội quân nhiều triệu người của đồng bào tôi. Sau chiến tranh, nơi trú ngụ cuối cùng đã dành được là sự yên tĩnh. Nhưng tôi đã ở lại đó - nơi chiến tranh, trong một qúa khứ không quay trở lại. Đối với những người lính của toàn thế giới, chiến tranh chưa kết thúc sau chiến thắng hoặc thất bại. Nó kéo dài suốt cả cuộc đời cho tới khi nhắm mắt xuôi tay. Chiến tranh đã tước đoạt của thế hệ chúng tôi tuổi thanh xuân ư? Chuyện hoàn toàn nhảm nhí và đó là cái thứ văn chương nhăng nhít của những người đàn ông và đàn bà nhạy cảm đối với sự phê phán, họ đọc nhiều những công trình nghiên cứu phương Tây về "thế hệ hư hỏng", họ tranh luận ầm ĩ ở ngoài hành lang và gây nên những tiếng thở dài não nùng. Chúng tôi không phải là thế hệ "hư hỏng", không phải là thế hệ "mất mát", cũng không phải là  thế hệ "vỡ mộng". Chúng tôi đã đi đến vị trí của mình, đã đi tới hành động của mình và đã làm những gì mà số phận được định đoạt.

Phần lớn các nhà văn , các nhà bác học, các học sĩ, các đạo diễn điện ảnh, các nghệ sĩ nổi tiếng đều từ thế hệ chiến tranh mà ra. Cuộc chiến tranh vệ quốc, đó là tuổi trẻ của chúng tôi, kinh nghiệm vất vả của chúng tôi, lương tri của chúng tôi, phẩm giá của chúng tôi, và nếu mượn lời của ông Môngtenhơ, thì có thể nói rằng: "Cái đó là của chúng tôi chứ không phải của ai khác". Chẳng nhẽ "bộ máy tuyên truyền dân chủ" lại hy vọng vào sự xét lại ở quy mô toàn thế giới cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, lại không dè xẻn những mầu sắc ảm đạm tang tóc và vẽ lên chiến công bất tử của nhân dân bằng cái chổi bẩn thỉu. Liệu có thể trông đợi ở lương tri của một số nhà học giả có tên tuổi trước đây đã từng ca ngợi quân đội Xô Viết vinh quang nay bỗng nhiên quay ngoắt 180 độ như trong động tác vũ ba lê và lớn tiếng nguyền rủa tinh thần dũng cảm lẫn ý chí kiên cường của quân dội Xô Viết và miệt thị các bậc tướng lĩnh thiên tài của chúng ta?

Tôi muốn nói rằng trong số nhiều danh tướng có tầm cỡ thế giới, tên tuổi của Giucốp mà người ta đã viết quá nhiều những điều thù địch, chiếm một vị trí nổi bật nhất trong lịch sử của tất cả các cuộc chiến tranh thế giới, bởi lẽ tài năng lớn lao của ông được hiến dâng cho nhân dân, cho việc bảo vệ nhân dân nhân danh công lý và nhân danh chính bản thân cuộc sống. Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại mãi mãi sẽ là sự hùng vĩ về mặt tinh thần đối với chiến thắng vẻ vang của nhân dân Liên Xô, chiến thắng này không thể nào hình dung nổi nếu thiếu hai thiên tài của thế kỷ XX là Xtalin và Giucốp.

24 - 2 - 99
LÊ SƠN giới thiệu và dịch
(128/10-99)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.

  • NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.

  • PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)

  • TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

  • NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.

  • TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

  • THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.

  • HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.

  • TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

  • TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

  • HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.

  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.