Hồn Việt trong "Cổ pháp cố sự" của Nguyễn Khôi*

16:53 06/02/2009
PHẠM NGỌC HIỀNChưa lúc nào trong lịch sử Việt , các nhà văn hoá ta lại sốt sắng ra sức kêu gọi bảo tồn nền văn hoá dân tộc như lúc này. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế công nghiệp cộng với xa lộ thông tin đã mang theo những ngọn gió xa lạ thổi đến từng luỹ tre, mái rạ làm cho "Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều". Mà "Trách nhiệm của mỗi dân tộc là phải thể hiện rõ bản sắc của mình trước thế giới" (R. Tagor).

Bởi vậy, nhiều nhà nghiên cứu có tâm huyết đang từng ngày, từng giờ miệt mài sưu tầm, khảo cứu những giá trị văn hoá cổ truyền của cả dân tộc hay từng vùng, miền. Thậm chí, có người chỉ chú trọng đến phong tục, tập quán của một làng mà in thành một tập khảo cứu có giá trị hẳn hoi. Như làng Đình Bảng trong "Cổ pháp cố sự" của Nguyễn Khôi.

Có lẽ Đình Bảng là cái tên làng nổi danh bậc nhất trong các làng xã ở Việt . Nó đã được ghi vào chính sử Việt từ hơn 1000 năm trước. "Tiểu Thăng Long thành" này nằm trên mảnh đất Kinh Bắc vốn đã "tích tụ bao đời những tinh anh nhiều mặt của dân tộc". Vùng đất Bắc Ninh còn lưu giữ khá nhiều những dấu tích văn hoá cổ truyền, trong đó có thể coi Đình Bảng là một làng quê điển hình của Việt . Nhưng Nguyễn Khôi không chỉ vì chú ý đến cái tính điển hình đó mà ông viết về vùng quê này xuất phát từ sự thôi thúc của một con tim nặng nợ với quê hương. Sau mấy mươi năm đi đây đi đó khắp nơi, lên Tây Bắc, rồi từng bước chân đến trên 20 nước khác nhau, cuối cùng, chàng trai Đình Bảng này dừng chân ở góc Thành Nam (Thăng Long) để chiêm nghiệm về nét đẹp của "ao ta". Nguyễn khôi đóng vai trò như một người con của làng nay đã lớn tuổi, kể lại chuyện xưa cho lớp trẻ của làng và những ai muốn làm bạn với làng. Bởi vậy, ta thấy ông lặp lại rất nhiều những từ: làng Đình Bảng ta, dân làng mình, làng nhà, làng tôi... rồi rộng hơn là: thành Thăng Long ta, người Việt ta... Để tăng tính chân thật và thân mật, ta cũng thường nghe tác giả nói: thầy tôi kể rằng, mẹ tôi bảo, dân làng kể rằng, các cụ xưa đã răn dạy... Và Nguyễn Khôi đã dẫn dắt bạn đọc làm một chuyến du lịch kỳ thú đi lui về hơn 1000 năm trước. Từ cái thời Cao Biền biến hạt đậu thành binh mã đến sự kiện Lý Công Uẩn sinh ra và sự tồn tại 216 năm của nhà Lý. Cuối cùng là cái thời mà "Chủ tịch xã Đình Bảng hôm nay chỉ đạo công việc bằng máy tính điện tử nối mạng tới 15 thôn và các công ty, xí nghiệp, hợp tác xã, trường học... ở Khu công nghiêp Đình Bảng, Khu văn hoá du lịch đền Đô...".

Xét về không gian, làng Đình Bảng chỉ là một chấm nhỏ trên bản đồ Việt . Nhưng từ đó, tác giả triển khai cho ta thấy toàn bộ diện mạo nền văn hoá dân tộc. Có thể nói:  "Cổ Pháp cố sự" là bộ bách khoa toàn thư về vùng quê Việt . Ngoài những trang khảo cứu tỉ mỉ về địa lý, lịch sử của vùng đất vốn được coi là "huyệt đất quý, phát tích đế vương" này, tác giả đã dành 45 chương mục để nói về văn hoá truyền thống. Trong đó, có những cái được coi là "quốc tuý" như đình Đình Bảng, dân ca quan họ, các trò chơi dân gian, lễ nghi đình đám, trang phục ("Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng" - HC). Tác giả miêu tả tỉ mỉ những món ăn "thể hiện một trình độ đời sống cao, một nền "văn hoá ẩm thực" "tầm cỡ quốc tế" như món giò chả... đến những món đậm mùi dân dã như "cỗ thịt chuột"...”. Bên cạnh tự hào về những mặt mạnh của người Đình Bảng như học tài, buôn giỏi... tác giả cũng mạnh dạn nói đến những mặt chưa tốt của một số nông dân như cờ bạc, trộm cắp, tính cục bộ địa phương... Tất cả những yếu tố văn hoá kể trên đều được thể hiện thông qua những câu chuyện nhỏ có liên quan tới gia đình tác giả. Mà gia đình là một xã hội thu nhỏ. Trong đó, "mỗi số phận con người đều chứa đựng một phần lịch sử", câu nói ấy của Evtusenko hẳn rất có lý.

Thực ra, nếu tác giả chỉ dừng lại ở việc mô tả các hiện tượng bề ngoài thì có thể tác phẩm này cũng na ná như nhiều tập sách khác viết về Bắc Ninh. Điều đáng ghi nhận là ở chỗ lý giải của tác giả, ông đã phát hiện ra nhiều quy luật và bản chất đời sống mà ít người nhận thấy. Chẳng hạn, từ câu chuyện Nguyên phi Ỷ Lan, ông có cái nhìn so sánh với nhiều nước khác: "Từ cô Tấm trở thành phi tần... ở Việt Nam ta xưa nay không hiếm, khác với nhiều nước trên thế giới (giới quý tộc thường không lấy thứ dân), tính dân tộc, tính bình dân ở người Việt Nam quả là một đặc thù". Người ta thường nghe trai Đình Bảng rất tự hào về mình (điều này cũng được phản ảnh trong tập thơ "Trai Đình Bảng" của Nguyễn Khôi). Tác giả lý giải như sau: bởi Trai Đình Bảng được làng cấp cho nhiều ruộng, "Do vậy, con trai Đình Bảng có giá trị là thế !". Nhưng kèm theo đó là một nghịch lý: Những đấng mày râu ấy lại ít thạo việc cày bừa mà chỉ "ở nhà ngồi trông coi nhà cửa và dạy dỗ con cái" cho vợ đi buôn. Đình Bảng "là làng buôn mà lạ thay làng lại không có chợ...". Đó cũng là nét riêng độc đáo của làng quê này.

"Cổ Pháp cố sự" còn hấp dẫn bạn đọc ở lối kể chuyện bằng một thứ văn phong thập cẩm do kỹ sư kiêm nhà thơ Nguyễn Khôi gia công chế biến để món ăn tinh thần khỏi bị đơn điệu. Có khi ta gặp một loại văn phong khoa học hiện đại miêu tả tỉ mỉ chính xác đến từng con số. Có khi là giọng văn đĩnh đạc, cổ kính, chứng tỏ tác giả là người rất am tường chữ Hán. Bên cạnh loại ngôn ngữ gọt dũa, trang trọng là thứ ngôn ngữ đời thường, dân dã ngay trong giọng kể tác giả: ấy thôi, thôi thì, nữa kia, vậy chăng, biết chừng nào, là vậy, là thế, chao ôi, lạ thay... Để thấy được bản sắc ngôn ngữ của Đình Bảng, tác giả làm một bản liệt kê những "lời ăn tiếng nói" của vùng này so với cả nước. "Chao ôi, còn đình đền, còn tiếng nói, còn phong tục có bản sắc riêng... âu cũng là một động lực cho người Đình Bảng ta luôn vượt ngang tầm thời đại là thế". Người đọc cũng khó quên những trang văn thấm đẫm chất thơ: "Nơi ấy có những con cò lặn lội, những cánh cò bồng bế nhau đi; những đàn chim ngói chở heo may về, những đám lục bình trôi nổi với những chùm hoa tím ngát. Sông là lòng quê, tình quê chở đầy ắp hồn làng... "Có lẽ hiếm thấy có tập khảo cứu nào mà đưa thơ vào nhiều như tập này. Trong  sốá đó, ta bắt gặp nhiều bài thơ của Nguyễn Khôi viết về làng mình, như bài "Ao làng" đã được nhiều người biết đến: "Vượt biển, chơi hồ, trở quá giang/ Bỗng dưng lại thấy nhớ ao làng/ Cái đêm hè ấy ai ra tắm/ Để cả bầu trời phải tắt trăng". Đọc văn Nguyễn Khôi, ta có cảm tưởng như nhà thơ đang trên đường đi tìm đến dãy Thi Sơn nhưng nửa chừng thì mỏi chân nên ghé lại Rừng Văn và kết duyên cùng Khảo Cứu, nhưng trong lòng vẫn chưa dứt tơ tưởng Nàng Thơ.

Hẳn sẽ có nhiều người tự hỏi: nên xếp "Cổ Pháp cố sự" vào thể loại nào? Biên khảo, truyện phong tục, hồi ký hay tuỳ bút?... Xin hãy nghe theo lời của nhà mỹ học Đức Letxing: Việc phân loại tác phẩm chỉ có trong các sách giáo khoa. Còn trong thực tế, có nhiều nhà thơ kết hợp nhiều thể loại khác nhau để nhằm mục đích cao hơn, "Chúng ta chỉ nên hỏi liệu cái mục đích cao hơn đó có đạt được hay không mà thôi". Mục đích cao nhất của Nguyễn Khôi là góp phần bảo lưu nền văn hoá dân tộc. Mục tiêu đó cũng đã được thể hiện qua nhiều tác phẩm của ông như: "Bắc Ninh thi thoại", "Xứ Thái mù sương", "Tiễn dặn người yêu" (biên dịch) v.v... (trong số đó có những tác phẩm đaî được giới thiệu ở nước ngoài qua mạng Internet). Nguyễn Khôi viết "Cổ Pháp cố sự" không chỉ nói riêng cho một làng Đình Bảng, không chỉ dành cho "người đương thời" mà xa hơn nữa còn dành cho các thế hệ mai sau ở khắp mọi nơi
P.N.H

(nguồn: TCSH số 192 - 02 - 2005)

 



--------------------------------
*  Đọc "Cổ pháp cố sự" - Nguyễn Khôi - NXB Văn hoá dân tộc, 2003

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • GIÁNG VÂN

    LGT: Tháng 4/2018, Nxb. Europa (Hungary) đã dịch và ấn hành tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung, (Giải thưởng Hội Nhà Văn Hà Nội, 2011). Tập thơ gồm 24 bài cũ và 14 bài mới, được in song ngữ Việt - Hung với 2000 bản. Lễ ra mắt tập thơ được tổ chức trang trọng trong khuôn khổ Liên hoan sách Quốc tế Budapest, với sự có mặt của nhà thơ Trương Đăng Dung và hai dịch giả: Giáp Văn Chung và Háy János cùng đông đảo bạn đọc Hungary. Tập thơ đã được giới chuyên môn và bạn đọc đón nhận nồng nhiệt. Ngay trong lễ ra mắt, toàn bộ số sách mang đến đã được bán hết.

  • HỒ THẾ HÀ

    Hữu Thỉnh là nhà thơ xuất sắc trong thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Cuộc sống và trang thơ của ông đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và giải mã ở tất cả các cấp độ thi pháp với giá trị độc sáng riêng của chúng. Người đến sau khó có những phát hiện gì thêm từ thế giới chỉnh thể nghệ thuật ấy.

  • NGUYỄN THÀNH NHÂN

    Khi nhắm mắt trong phút chốc, xung quanh tôi thoắt nhiên rực rỡ nắng, tôi chỉ là một đứa trẻ nhỏ, chỉ mới mười ba tuổi đầu và đang cố gắng đuổi theo người con gái ấy.” 

  • PHẠM PHÚ UYÊN CHÂU
    Nhân 17 năm ngày mất nhà văn Nguyễn Văn Bổng (11/7/2001 - 11/7/2018)    

    Nói đến Nguyễn Văn Bổng trước hết chúng ta nói đến một nhà văn xứ Quảng anh hùng, giàu bản sắc, một nhà văn hàng đầu của văn xuôi Việt Nam hiện đại, một bút lực dồi dào, với những tác phẩm tràn đầy nhựa sống, là nói đến một khối lượng lớn những tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký có giá trị… (Nhà thơ Hữu Thỉnh).

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trần Vàng Sao là một người yêu nước. Điều này dễ dàng khẳng định cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nghĩa trực tiếp lẫn gián tiếp, không chỉ bởi lẽ anh đã chọn bút danh là Trần Vàng Sao, là tác giả của Bài thơ của một người yêu nước mình, mà còn chủ yếu là ở thế giới hình tượng nghệ thuật và thi trình của anh gắn liền với vận mệnh của đất nước và số phận của nhân dân. 

  • NGUYỄN DƯ

    Đang loay hoay thu dọn lại tủ sách bỗng thấy cuốn Dã sử bổ di. Tự dưng muốn đọc lại. Nhẩn nha đọc… từ đầu đến cuối!

  • NGUYỄN VĂN SƯỚNG

    Đi như là ở lại(*) là tập bút ký viết về những vùng đất Lê Vũ Trường Giang đã đi qua trong hành trình tuổi trẻ. Tác phẩm dày gần 300 trang, gồm 15 bút ký.

  • TRUNG TRUNG ĐỈNH

    Khóa học đầu tiên của trường viết văn Nguyễn Du do ý tưởng của ai tôi không rõ lắm. Nhưng quả thật, sau 1975, lứa chúng tôi sàn sàn tuổi “băm”, cả dân sự lẫn lính trận đều vừa từ trong rừng ra, đa số học hết cấp III, có người chưa, có người đang học đại học gì đó.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Tuổi thơ bao giờ cũng chiếm một phần tất yếu trong ký ức chúng ta. Sống cùng tuổi thơ là sống bằng mộng, bằng mơ, bằng cái hồn nhiên, cái thiện ban sơ, thiên đường đuổi bắt.

  • LIỄU TRẦN

    Lưu lạc đến tay một tập viết nhỏ “Thiền sư ở đâu”, tác giả Bùi Long. Chợt nghĩ, thời này là thời nào còn viết kiểu này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    Có thể gọi đây là cuốn hồi ký đặc biệt vì nhiều lẽ. Trước hết, vì tác giả hình như chưa viết báo, viết văn bao giờ. Bà là PGS.TS chuyên ngành Dược, nguyên Phó Giám đốc Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh, nhưng lại có “thế mạnh” hơn nhiều cây bút khác - Cao Bảo Vân là con gái của tướng Cao Văn Khánh (1916 - 1980).

  • HOÀNG THỤY ANH    

    Đỗ Thượng Thế là giáo viên dạy mỹ thuật. Ấy thế mà, nhắc đến anh, người ta luôn nghĩ đến nhà thơ trẻ. Cũng đúng thôi, nhìn vào hoạt động thơ ca và các giải thưởng của anh mới thấy cuộc chơi chữ đã lấn át hoàn toàn sân họa.

  • DO YÊN     

    Trong không khí kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, nhà văn - cựu chiến binh Nguyễn Quang Hà đã trình làng tiểu thuyết Nhật ký Đông Sơn, góp phần làm phong phú các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân.

  • TRẦN HOÀNG

    (Đọc "Giai thoại Nguyễn Kinh"
    Triều Nguyên sưu tầm - biên soạn. Sở Văn hóa Thông tin Thừa Thiên 1990)

  • LÊ KHAI

    "Tuổi mười ba" tập thơ của Lê Thị Mây (Nhà xuất bản Thuận Hóa 1990) gợi người đọc nhận ra tính cách của nhà thơ.

  • NGUYÊN HƯƠNG    

    1. Có nhiều cách để người ta nói về Tết. Đó là một dịp để con người nghỉ ngơi, gặp gỡ, hàn huyên, và dù có được chờ đợi hay không thì Tết vẫn tới.

  • NGUYỄN VĂN CƯƠNG

    Thọ Xuân Vương Miên Định (1810 - 1886), tự là Minh Tỉnh, hiệu là Đông Trì, là con trai thứ ba của vua Minh Mạng và bà Gia phi Phạm Thị Tuyết.

  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BA   

    Mùa Xuân là một chủ đề được thi hào Nguyễn Du nhắc đến khá nhiều trong thơ chữ Hán của cụ. Lạ thay đó là những mùa xuân tha hương buồn bã đến chết người.

  • ĐỖ HẢI NINH

    Trong công trình Ba thế hệ trí thức người Việt (1862 - 1954), trên cơ sở nghiên cứu về trí thức người Việt từ phương diện xã hội học lịch sử, GS. Trịnh Văn Thảo xếp Nguyễn Vỹ vào thế hệ thứ 3 (thế hệ 1925) trong số 222 nhân vật thuộc ba thế hệ trí thức Việt Nam (1862, 1907 và 1925)(1).

  • ĐỖ LAI THÚY

    Tôi có trên tay cuốn Tôi về tôi đứng ngẩn ngơ (tập thơ - tranh, Sách đẹp Quán văn, 2014) và Đi vào cõi tạo hình (tập biên khảo, Văn Mới, California, 2015) của Đinh Cường.