LTS: Trong thời gian qua, báo chí trong nước đã phản ảnh về việc Hội Quảng Tri - nơi diễn ra các hoạt động khai trí ở Huế đầu thế kỷ 20 - được đề xuất phá dỡ, xây mới để làm …trụ sở UBND phường.
Đề xuất này khiến người dân Huế và những người yêu Huế nói chung, nhân sĩ trí thức, văn nghệ sĩ Huế nói riêng lo lắng, nhiều ý kiến đề nghị cần cẩn trọng.
Hội Quảng Tri năm xưa, nay là UBND phường Phú Hòa
Tạp chí Sông Hương xin cung cấp một số tư liệu liên quan đến Hội Quảng Tri - Huế (còn gọi là Hội quán Quảng Tri, Nhà Đại Chúng) qua sách báo và các bài viết của một số nhà nghiên cứu Huế, để các cấp có thẩm quyền có cơ sở suy xét, đưa ra những quyết định hợp lòng dân.
Các tư liệu cho thấy: Nơi đây gắn liền với tên tuổi các chí sỹ yêu nước như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng…; các nhà hoạt động cách mạng như Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu, Hoàng Anh…; các tên tuổi văn hóa lớn như Đào Duy Anh, Đạm Phương Nữ Sử, Phạm Quỳnh, Nguyễn Lân, Đào Đăng Vỹ, Manh Manh Nữ Sỹ, Ưng Quả, Hoài Thanh …
Với thành phố Huế, đây từng là nơi Hội đồng Nhân dân Thuận Hóa họp lần Thứ nhất sau Cách mạng Tháng Tám 1945.
Nhiều ấn phẩm văn hóa đã xuất bản tại đây, trong đó nổi bật là Tập văn họa Kỷ niệm Nguyễn Du. Đây cũng là nơi đóng tòa soạn của một số tớ báo cách mạng, trong đó có tạp chí Đại Chúng, cơ quan văn hóa cứu quốc Trung Bộ…
Các tư liệu tuy còn ít ỏi do thời gian sưu tầm gấp rút, song cũng đủ cho chúng ta thấy Hội Quảng Tri - Huế, thật sự là một địa chỉ văn hóa quý hiếm của cả nước, rất đáng được bảo tồn và phát huy.
SÔNG HƯƠNG
Hội Quảng Tri ở Huế
HỒ VĨNH
Hội Quảng Tri có trụ sở tọa lạc trên đường Hàng Bè, nay là số 51 Huỳnh Thúc Kháng, thành phố Huế. Hội Quảng Tri là một tòa lầu đứng soi bóng trên bờ sông Đông Ba. Ông Đào Đăng Vỹ đã từng làm Hội trưởng trong gần 15 năm: 1935 - 1949(1).
Lúc đầu những hội viên của Hội là những người bình thường có chút ít học thức vào Hội để trau dồi kiến thức. Về sau, dần dần có những người trí thức có bản lĩnh, có tinh thần yêu nước vào Hội để “gạn đục khơi trong” mở mang dân trí chờ cơ hội đứng ra giúp nước… Nơi đây tổ chức thường xuyên những buổi nói chuyện về văn hóa nghệ thuật, thời sự khoa học. Người ta còn nhớ trong những năm 1934 - 1935 ở đây nổ ra nhiều cuộc tranh luận về nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh; lần đầu tiên chủ nghĩa Duy vật được nói công khai và đã thắng chủ nghĩa Duy tâm. Đến năm 1936 đã có những cuộc họp của trí thức ở Hội Quảng Tri để lấy ý kiến đòi chính quyền thực dân Pháp phải tổ chức Đông Dương Đại hội theo tinh thần “dân chủ” của chính phủ Bình Dân mới lên cầm quyền ở Pháp(2). Ngày 23/1/1937, nhân danh chủ nhiệm báo Nhành Lúa, ông Nguyễn Xuân Lữ đã đứng ra tổ chức cuộc họp trù bị những người viết báo ở Huế tại Hội Quảng Tri. Hầu hết những người viết ở Huế đều đến dự. Buổi họp cũng đã cử ra Ủy ban trù bị Đại hội gồm Nguyễn Quý Hương (Báo Tiếng Dân), Nguyễn Xuân Lữ (Báo Nhành Lúa) và Phạm Bá Nguyên (Báo Kinh Tế Tân văn). Các ông Huỳnh Thúc Kháng, chí sĩ Phan Bội Châu, Tiêu Diêu Tử có gửi thư hoan nghênh hội nghị(3).
Riêng ông Đào Đăng Vỹ, nhà văn Nguyễn Vỹ trong tác phẩm “Tuấn - chàng trai nước Việt” có nhắc đến ông Hội trưởng này: “Buổi diễn thuyết ở Huế do một ông tên là Đào Đăng Vỹ, Hội trưởng Hội Quảng Tri chủ tọa, ông này hình như đã quen biết Tuấn từ lúc ông còn học trường Luật tại Hà Nội, và cũng là ký giả, trợ bút như Tuấn, trong tờ báo Pháp ngữ “La Patrie Annamite” của Tôn Thất Bình, rể Phạm Quỳnh”. Cuộc diễn thuyết bắt đầu 8 giờ tối thứ bảy. Thính giả đông nghẹt, ngồi chật ních trong cử tọa, lần đầu tiên có bà Đạm Phương đến dự. Bà là một nữ sĩ danh tiếng nhất của Đế Đô, một nữ học giả đã đứng tuổi giỏi cả Hán văn và Quốc văn, tác giả một số quyển sách có giá trị. Bà viết trong tạp chí Nam Phong và đăng thơ trong báo Tiếng Dân, ký tên Đạm Phương Nữ Sử. Lúc bấy giờ bà là Hội trưởng “Nữ công học hội” Huế. Đa số thính giả phụ nữ, gồm những nữ lưu trí thức ở Thần Kinh, là những phần tử tân tiến, không tán thành ý kiến của Tuấn về vấn đề phụ nữ đua xe máy. Họ cho rằng con gái đua xe máy như thế mới là tiến bộ.
Giữa lúc câu chuyện của Tuấn đang hăng say, (Tuấn ứng khẩu chứ không viết sẵn bài diễn thuyết) một vài thiếu nữ đứng dậy phản đối ý kiến của Tuấn. Tuấn bình tĩnh yêu cầu cho chàng nói hết xong rồi ai muốn chất vấn chàng sẽ xin trả lời. Nhưng hai cô yêu cầu Tuấn trả lời ngay. Ông chủ tọa Đào Đăng Vỹ phải can thiệp:
- Xin lỗi các cô, đây là Hội Quảng Tri mời diễn giả đến nói chuyện. Nếu các cô không đồng quan điểm với diễn giả, thì xin hôm khác sẽ tổ chức một buổi hội thảo chống lại. Hôm nay xin đừng ngắt lời diễn giả”. Thật thú vị khi lần tìm những dấu tích như thế, còn sót lại ít ỏi của từ điển gia người Huế Đào Đăng Vỹ(4).
Sau ngày Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, trụ sở Hội Quảng Tri là tụ điểm sinh hoạt nhộn nhịp nhất của trí thức Huế. Ngoài những cuộc họp mặt nghe thời sự cách mạng do các đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Anh, Tố Hữu, Hoài Thanh, Đỗ Nhuận, Phan Thị Nga… nói, còn có những buổi biểu diễn văn nghệ không chuyên của các tầng lớp nhân dân Huế(5).
Mùa xuân năm 1948 tại Hội Quảng Tri, ông Đào Đăng Vỹ tổ chức buổi nói chuyện do văn hào George Duhamel (Pháp) làm diễn giả; mở đầu bài diễn văn George Duhamel có lời lẽ dụ dỗ trí thức Huế “trở lại về nếp nhà xưa” và bị học sinh Huế đả đảo tẩy chay. Ông bắt đầu lập luận “Suy nghĩ là gì. Suy nghĩ là trở lại bước đường đã đi qua”(6). Bà Nguyễn Thị Mỹ Lý, cư dân ở phố Cửa Đông thuộc phường Phú Hòa, nay là đường Phan Đăng Lưu, thành phố Huế cho biết: “Năm 1955, tôi có đi xem ban nhạc Tân Hoa (ban nhạc Thiếu nhi trong đó có 5 người con của gia đình ông Tăng Duyệt) biểu diễn tại Hội Quảng Tri. Chương trình biểu diễn phần lớn hát những bài nhạc do Tinh Hoa xuất bản(7). “Hội Quảng Tri hoạt động đến năm 1968 thì suy yếu, sau năm 1975 hội giải tán. Ngôi nhà này sau năm 1975 được giao Phòng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp thành phố Huế. Năm 1989 giao Thành đoàn Huế làm Nhà Văn hóa Thanh Niên. Đến năm 2004, UBND phường Phú Hòa chuyển về đây. Ngôi nhà chính được cải tạo để phù hợp công năng mới. Còn lại hội trường và chiếc cổng nguyên gốc của Hội Quảng Tri vẫn giữ được đến nay. Mới đây, UBND phường Phú Hòa đã đề xuất với UBND thành phố Huế cho phá dỡ trụ sở hiện tại. Theo ông Tôn Thất Thái - Chủ tịch UBND phường Phú Hòa: “Trung tâm kiểm định chất lượng xây dựng cho biết phương án sửa chữa là không khả thi nên chúng tôi đề xuất được xây mới”. Nhà nghiên cứu Bửu Ý nói: “Công trình hiện đại thì ngày càng xây nhiều lên mà công trình của cha ông ngày xưa thì ngày một mất đi. Vì vậy, tôi đề xuất nên giữ lại để con cháu đời sau muốn tìm hiểu Hội Quảng Tri thì nó vẫn còn đó”(8).
Hội Quảng Tri là một di tích văn hóa một thời gắn bó quen thuộc của người dân Cố đô Huế. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho biết: “Trước đây Hội Quảng Tri có một thư viện với nhiều tài liệu sách vở quý giá như bộ Tứ khố Toàn Thư mà ở Việt Nam lúc ấy không nơi nào có. Nhờ số tài liệu sách vở này mà nhiều hội viên của Hội đã trở thành những nhà bách khoa của thế kỷ XX ở nước ta như các ông Đào Duy Anh, Đào Đăng Vỹ, Nguyễn Lân…”.
H.V
(SDB19/12-15)
......................................
(1) “Nhà văn Đào Đăng Vỹ và cuốn Bách khoa từ điển”, báo Thế giới tự do, số 6, tập VII, tr.12. Xem thêm: Niên giám Văn nghệ sĩ Việt Nam và Hiệp hội Văn hóa Việt Nam, 1969 - 1970, Sài Gòn, 1970, tr.111.
(2) Nguyễn Đắc Xuân, “Hội Quảng Tri”, Báo Tin Huế, số 22, từ 1 đến 10/10/1986, tr.4.
(3) Nguyễn Văn Cường, “Phong trào Dân chủ 1936 - 1939 ở Thừa Thiên Huế”, Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Sư phạm Huế, 2012, tr.52. Xem thêm Nguyễn Thành, Báo chí cách mạng Việt Nam 1925 - 1945, Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội, 1984, tr.178. Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế - Báo Thừa Thiên Huế, Lịch sử báo Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế (1930 - 2010), Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2014, tr.62.
(4) Dẫn theo Võ Sơn Trung, “Một người Huế làm bộ từ điển bách khoa đầu tiên của Việt Nam”, Tạp chí Sông Hương, số 12, tháng 3/2014, tr.37.
(5) Nguyễn Đắc Xuân, “Hội Quảng Tri”, Bài đã dẫn, tr.4.
(6) Nhiều tác giả, Huế một thời học sinh, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội, 1996, tr.19. Bùi Minh Đức, Từ điển Tiếng Huế, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc Học, 2004, tr.437.
(7) Ghi theo lời kể của bà Nguyễn Thị Mỹ Lý, ngày 01/07/2010.
(8) An Bang, “Huế sẽ xóa bỏ dấu tích cuối cùng của Hội Quảng Tri”, Báo Tuổi Trẻ, 26/11/2015, tr.16.
Bà Francoise Corrèze - đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, là một chiến sĩ chống phát xít, một người bạn của Việt Nam từ nhiều năm nay. Sau những chuyến đi thăm nước ta trong chiến tranh cũng như từ ngày đất nước thống nhất, bà đã viết nhiều tác phẩm về Việt Nam. Lần đầu tiên đến Huế đầu năm 1985, bà đã ghi lại những cảm nghĩ của mình. Chúng tôi xin giới thiệu một số đoạn sẽ được in trong cuốn sách viết về thanh niên Việt Nam bằng tiếng Pháp.
PHAN THUẬN ANNgọ Môn năm cửa chín lầu,Cột cờ ba cấp, Phu Văn Lâu hai tầng.
LÊ MINH PHONGDọc theo đôi bờ Sông Hương, nơi có những công viên quyến rũ là điểm trưng bày của một số công trình nghệ thuật.
NHỤY NGUYÊN(Xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc trung ương)
LÊ PHÙNGSau nhiều ngày cùng nhau trăn trở - nghĩ suy - hiệp lực - hiệp tâm của những anh, chị em nhạc sĩ ở Huế, Nhạc Quán đã chính thức trình làng với công chúng yêu thích âm nhạc tại Huế vào lúc 20h, ngày chủ nhật (02/01/2011) là ngày Đinh Tỵ (nguyệt đức hợp, tế tự, đính hôn) trong tiết trời vào xuân của Huế, có sáng nắng chiều mưa, có gió về đêm, có lòng người ấm áp, có không gian lãng mạn, trữ tình.
HỒ VĨNHMới đây trong quá trình sưu tầm tư liệu Hán Nôm tại Cố đô Huế, chúng tôi tìm thấy được một văn bản có liên quan đến Phường Đúc Huế.
TƯỜNG THITôi trở lại Hương Trà bằng ký ức của hơn 20 năm trước, trên con đường đất băng qua những vườn thanh trà trĩu quả ven con sông Bồ thơ mộng để đến làng Lại Bằng, xã Hương Vân. Một xã tiếp giáp núi và đồng bằng, nơi đã ghi lại dấu ấn lịch chống giặc ngoại xâm của Thừa Thiên Huế - địa đạo Khe Trái.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNTrong những năm gần đây, Huế đã được các nhà đông phương học và khách du lịch trong nước và ngoài nước lưu ý.
MAI KHẮC ỨNGLăng Minh Mạng nằm dưới chân núi Cẩm Kê thuộc thôn La Khê làng An Bằng huyện Hương Trà cũ, nay là thôn Liên Bằng, xã Hương Thọ, thành phố Huế. Địa thế dải đất này rất đẹp. Hiện thời cây cối ở chung quanh đã lùi xa để lại những khoảng trống nối dài trên các triền đồi thoai thoải, khu lăng trở nên lẻ loi hơn.
LÊ HUỲNH LÂMCó lẽ một trong những loài động vật gần gũi, gắn bó với người dân xứ Huế trong mọi thời cuộc là loài hến. Cho dù trải qua bao thăng trầm, bao biến cố trên mảnh đất nhỏ bé này, mọi thứ có thể thịnh suy nhưng hến vẫn trường tồn. Trường tồn như một nét văn hóa thầm lặng, khiêm tốn, không khua trương, ồn ào,… mà âm thầm tỏa ngát hương.
PHAN HỨA THỤYChùa Thiên Mụ là một công trình kiến trúc có qui mô lớn và xuất hiện khá sớm trong quá trình hình thành phát triển của văn hoá Phú Xuân. Cũng như phần lớn các công trình kiến trúc cổ khác, chùa Thiên Mụ từ khi mới được xây cất trở về sau lần lượt đã được dựng nhiều tấm bia, hoặc để ghi lại công việc tu tạo, hoặc đề thơ vịnh cảnh, hoặc ghi cảm tưởng trong những lần vãn cảnh chùa của một số vua chúa nhà Nguyễn.
NGUYỄN ĐÌNH HÒE VÀ L.CADIÈRE(Tiếp theo SH số 5 – tháng 2 - 1984)
NGUYỄN ĐÌNH HÒE VÀ L.CADIÈRE(B.A.V.H. 1992, trang 189-203)HỒ TỊNH TÂM - Từ thời Gia Long, khi xây kinh thành Huế, một nhánh sông đã được ngăn chặn lại ở trên làng Kim Long hiện nay và dòng sông đó bị lấp đi ở một vài nơi, một số nơi khác thì được mở rộng và uốn nắn lại cho đều đặn. Chính một phần của nhánh sông ngày xưa ấy đã tạo ra Hồ Tịnh Tâm, nay ở tại bên trái đường Lục bộ, gần với Cầu kho, hay vùng nhượng địa (cho Pháp ở Mang Cá lớn).
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGCó lẽ thiên nhiên đã giữ một vai trò nào đó, thực quan trọng, trong sự tổng hợp nên cái mà người ta có thể gọi là “bản sắc Huế”. Bởi vì thiên nhiên bao giờ cũng biểu hiện một cách nhất quán giữa cái hằng cửu và cái biến dịch, giữa cái biến động và cái tĩnh tại.
MAI KHẮC ỨNGBất chợt. Tưởng như có con lợn chạy giữa sân điện Cần Chánh tại Hoàng thành Huế. Định thần lại tôi đã nhìn thấy chúng trong mấy ô trang trí bên thân hai chiếc vạc đồng đúc thuở Kim Long còn là phủ chúa dưới thời Hiền vương Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) mà lạc khoản lại ghi Thịnh Đức thứ 8 và Thịnh Đức thứ 10. Bản chú thích bên hai vạc này ghi là đúc năm 1660 và 1662.
L.N.D: Vào năm 1822, dưới triều Minh Mạng, một người Anh là John Crawfurd có dịp đến Huế và được hai người Pháp lúc bấy giờ đang làm quan ở đây là Chaigneau và Vannier hướng dẫn đi thăm Kinh Thành. Dưới đây là những gì mà Crawfurd đã viết về Huế trong ngày viếng thăm ấy: 29-9-1822. Chúng tôi dịch từ bản Pháp ngữ của H.Cossarat trong B.A.V.H. 1933, No1-2, tr.5-10.
PHẠM ĐĂNG TRÍThuở ấy, có nhiều người từ những miền đất màu mỡ nhưng vẫn dời nhà đến ở trên một vùng gò đồi đầy sỏi đá. Nguyên nhân lôi cuốn họ tới đây là do màu sắc thiên nhiên ở chốn này thật là thanh tú, đa dạng và không ngừng thay đổi.
LÊ VĂN HẢOTháng 12 năm 1979 tại thành phố Pitxanulôcơ (Pitsanulok) Thái Lan, ông Tổng Giám đốc Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc (gọi tắt là UNESCO) đã triệu tập một cuộc họp của những chuyên gia nhằm chuẩn bị cho một Chương trình nghiên cứu các đô thành lịch sử ở châu Á. Chương trình này sẽ nhằm vào một số đô thành cổ kính đã từng đóng những vai trò có ý nghĩa trong sự phát triển và giao lưu của các nền văn hoá ở châu Á.
Chiều 8.6, tại Nam Châu Hội Quán trên vùng cỏ cây Kim Long xứ Huế, GALA TINH HOA SÔNG HƯƠNG đã được tổ chức nhằm tôn vinh Nhà xuất bản Tinh Hoa - Huế.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNỞ mục “Phương vị quê hương” này, tạp chí sẽ lần lượt đăng các bài tìm hiểu văn hoá ngắn gọn nhưng có… duyên văn chương. Chúng tôi vui mừng được sự hưởng ứng của các nhà nghiên cứu lão thành am hiểu Huế - Bình Trị Thiên như các cụ Bửu Kế, Phan Văn Dật, Nguyễn Hữu Đính, Phạm Đăng Trí… cùng các anh Lê Văn Hảo, Nguyễn Đắc Xuân, Phan Thuận An… Chúng tôi cũng mong nhận được bài của các bạn ở các tỉnh miền Trung nói về phong vị quê hương mình để tạo được giao lưu văn hoá trên giải đất gắn bó lâu đời này.