Hội nghị lý luận phê bình văn học Tam Đảo

14:38 09/06/2009
BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

Trước khi triệu tập hội nghị này có nhà LL-PB đã tuyên bố “Sẽ không dự hội nghị nếu có Trần Mạnh Hảo”. Có lẽ vì thế mà Hội Nhà văn đã phải soạn thảo “Quy chế Hội nghị LL-PB Tam Đảo” phát cho tất cả đại biểu với nội dung chính như sau:

1. Hội nghị có Đoàn Chủ tịch và Ban thư ký. Đoàn Chủ tịch điều khiển hội nghị thảo luận, bàn bạc đúng những chủ đề và yêu cầu đã đặt ra. Ban thư ký giúp việc Đoàn Chủ tịch ghi chép biên bản hội nghị, tiếp nhận các tham luận và đăng ký phát biểu chuyển Đoàn Chủ tịch, lưu giữ các tham luận, để sau này in thành sách kỷ yếu hội nghị.

2. Các đại biểu phát biểu theo nội dung chương trình hội nghị và sự sắp xếp của Đoàn Chủ tịch. Thời gian dành cho mỗi tham luận không quá 15 phút.

3. Các phát biểu, tham luận nên tập trung vào 3 chủ đề đã nêu trong giấy mời (Nhìn lại chặng đường phát triển văn học giai đoạn 1975 – 2000: Thành tựu và hạn chế, những bài học kinh nghiệm – tình hình lý luận phê bình văn học hiện nay. Thực trạng ưu, khuyết điểm; nguyên nhân, giải pháp – Những vấn đề đặt ra cho sự phát triển văn học hiện nay. Nâng cao chất lượng sáng tác, vấn đề, nhân vật, trách nhiệm nhà văn, vai trò của LL-PBVH, vai trò của tổ chức Hội). Bảo đảm tính chất khoa học, trí tuệ, văn hoá của Hội nghị, nên tập trung lắng nghe ý kiến người khác, có thể có ý kiến trao đổi, nhưng không cắt ngang lúc người khác đang phát biểu; trên tinh thần đoàn kết, thực sự cầu thị, nghiêm túc, thẳng thắn, không sử dụng bài nói để đưa ra những thông tin thiếu căn cứ, không đả kích cá nhân”.

Từ chiều 13-8, gần 10 chiếc xe ca, xe con đã chở đại biểu tới Nhà nghỉ Công đoàn Tam Đảo, tay bắt mặt mừng. Những “cặp xung đột” cùng ở một nhà, cùng ăn một bàn, nói cười rôm rả. Các nhà văn từ miền Nam và miền Trung ra khá đông (dù vé máy bay không mềm mấy): Anh Đức, Lê Văn Thảo, Chim Trắng, Mai Quốc Liên, Trần Thanh Đạm, Phạm Quốc Ca, Phạm Quang Trung, Nguyễn Văn Hạnh, Trần Mạnh Hảo, Tô Nhuận Vỹ, Lâm Thị Mỹ Dạ, Thanh Thảo... Viện Văn học có cả chục người từ tân viện trưởng đến nguyên viện trưởng. Tạp chí Văn nghệ Quân đội có đến 6 người. Nhiều nhà văn ở Hà Nội và các tỉnh lân cận cũng đều có mặt. Nhà thơ kiêm “nhà hùng hồn” Trần Mạnh Hảo vừa xuống xe của ... báo Nhân dân, lập tức mở vali phát ngay hàng trăm tờ phôtô cỡ A4 và A3 những bài viết phê bình, và đơn kiện giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh và báo Ngày nay (in bài phỏng vấn N.Đ.M chỉ trích T.M.H), nhưng nơi gửi không phải là công an, viện kiểm soát hoặc toà án mà là Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương (!). Ngày hôm sau một vị khách không mời là Nguyễn Hoàng Đức từ Hà Nội lên cũng ôm một tập phôtô bài “bàn tròn” về triết luận nghệ thuật kiểu “hạ mục vô nhân” phân phát ở hành lang Hội nghị, rồi biến mất tăm. Nhà thơ Thanh Thảo sau khi nạp tham luận cho BTC liền đòi 200.000đ tiền “bồi đưỡng” và liền được chấp nhận. Cứ tưởng đấy là chiêu độc nhất vô nhị, hoá ra hơn 60 tham luận đều được bồi dưỡng với số tiền đó, dù được đọc hay không được đọc trong hội nghị.

Buổi khai mạc sáng 14.8, xuất hiện trên hàng ghế Đoàn Chủ tịch có Hữu Thỉnh, Hà Minh Đức, Trần Thanh Đạm, Anh Đức và Lê Quang Trang. Bàn thư ký có Lê Thành Nghị và Phạm Quang Trung (hai người này được gọi là “thư ký chuyên nghiệp” vì thấy trong Đại hội Nhà văn cũng giữ vị trí này). Bài đề dẫn của Tổng Thư ký Hội Nhà văn Hữu Thỉnh đọc rất hùng hồn nhận định LL-PB đã góp phần quan trọng trong tiến trình văn học nước nhà, đặc biệt là làm nổi bật tình hình văn học trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước, nhưng vẫn còn những hạn chế chưa theo kịp bước đi của sáng tác vô cùng phong phú và sinh động. Ông cũng nhấn mạnh rằng, đây là cuộc gặp gỡ, trao đổi, tranh luận trên tinh thần dân chủ. Dù dàn máy âm thanh khá tốt, nhưng ông đọc đúng vào giờ mưa to nên ít ai nghe rõ. Suốt cả ngày 14, hơn 20 tham luận đã được trình bày tại hội nghị, đó là tham luận của Trần Thanh Đạm, Nguyễn Huy Bắc, Trần Đình Sử, Xuân Cang, Lê Quang Trang, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Trọng Tạo, Chu Xuân Sơn, Thanh Thảo, Lâm Tiến, Hồ Sĩ Vịnh, Trường Lưu, Nguyễn Văn Dân, Vũ Quần Phương, Phạm Tiến Duật, Anh Thơ, Hoàng Trinh v.v... Có nhiều ý kiến cho rằng, lý luận phê bình sau 1975 đã chấp nhận nhiều trường phái hiện đại thế giới từng vắng bóng tại Việt Nam, kể cả chủ nghĩa hiện thực không bờ bến mà trước đây đã bị phủ nhận; không khí cởi mở, khoan dung và đối thoại dân chủ được mở rộng (Trần Đình Sử). Nhà văn Xuân Cang lại đưa ra một nhận xét lạ: Không phải người đọc quay lưng với sách mà sách đang quay lưng với người đọc! Ông cũng cho rằng, các nhà phê bình không nên lấy tiêu chí là dạy dỗ người đọc mà nên đi cùng người đọc, vì người đọc hôm nay là Thượng đế. Nhà LL-PB Nguyễn Văn Hạnh băn khoăn: “LL-PB văn học cần đối thoại, tranh luận mới phát triển được. Tiếc thay ta vẫn chưa có được một không khí đối thoại, tranh luận bình thường, lành mạnh”. Một số ý kiến phê phán lối phê bình bốc thơm, bốc thối, câu khách làm người đọc mất tin vào phê bình. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho rằng, phê bình gần đây mang ý nghĩa thứ tư của chữ PHÊ là “dùng tay đánh vào mặt người khác”. Nhà thơ Trần Mạnh Hảo chỉ trích cuốn Về một hiện tượng phê bình của nhiều tác giả dày gần 600 trang đã “đánh” anh là vô văn hoá. Nhà phê bình Chu Xuân Sơn bắt bệnh “phê bình suy lương tâm” quen thói bé xé ra to, lập hiện trường giả, đánh tráo khái niệm, xiên xẹo la lối, qui chụp chính trị, gây nhiễu và tạo ra những giá trị rởm. Vấn đề phê bình chuyên nghiệp và nghiệp dư cũng được tranh luận và dễ thống nhất ở chỗ phê bình phải đạt tới tính khoa học của một chuyên ngành. Nói như nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo là, thời nào cũng cần tính chuyên nghiệp cao huống hồ là thời đại khoa học phát triển như ngày nay; anh Trần Mạnh Hảo (T.M.H) có hơi dỗi khi một số người bàn về tính chuyên nghiệp trong phê bình. Nhưng tính chuyên nghiệp – chuyên ngành là có thật. Dẫu có đá bóng suốt đời trên bãi sông Hồng vẫn không phải là cầu thủ chuyên nghiệp. Nhưng một số người cũng băn khoăn về tính thiếu hấp dẫn và thiếu thuyết phục của lối phê bình hàn lâm.

Vấn đề phê bình sách giáo khoa văn học là một điểm nóng. Không ai khẳng định là sách giáo khoa không có sai sót, nhưng sự phê bình sách giáo khoa văn học đôi lúc quá thái và dẫn đến sự xúc phạm cá nhân không đáng có. Thư ký văn học của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng xuất hiện trong hội nghị này với một tham luận “rất là nhà giáo”, cho rằng: Ngòi bút dạy người nhưng ngòi bút cũng có thể giết người. Ông hy vọng các nhà văn, nhà LL-PB sẽ tận tâm, tận tình với giáo dục hơn nữa.

Hội nghị dành trọn buổi sáng 15 cho các đại biểu phát biểu tự do. Người mở màn là giáo sư Hoàng Ngọc Hiến. Ông nói điều chưa ai nói, đó là “tư cách người bị phê bình”. Ông chia sẻ với thái độ điềm đạm và quyết liệt của đạo diễn Đặng Nhật Minh sau khi bị “đánh”oan về phim Thương nhớ đồng quê bởi ông cũng là người bị đánh nhiều lần từ trong nước và cả ngoài nước. Ông cũng chia sẻ với giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh khi có người cho là “tiểu khí”. Ông dẫn lời Biêlinxki nói rằng người vĩ đại cũng có lúc tiểu nhân, đê tiện, nhưng cái lớn là họ nhận ra điều đó; nhưng ông sợ nhất là kẻ tiểu nhân, trâng tráo, đê tiện mà suốt cả đời không biết mình là tiểu nhân, trâng tráo, đê tiện. Ý kiến của Hoàng Ngọc Hiến rất ngắn nhưng được hội nghị vỗ tay tán thưởng đến hai lần. Nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn nói về sự quan ngại cho lối phê bình ít học, ít đọc, nhưng vì anh dẫn chứng kể lể quá dài dòng làm nhiều người thất vọng hơn là trước khi anh xuất hiện. Nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn cho rằng phê bình ta thiếu giọng điệu, nói như viết, viết như nói; nhưng khi anh đưa thông tin “17% nội dung 83% cơ thể” thiếu thuyết phục thì bị hội nghị cười ồ. Nhà LL-PB Phạm Xuân Nguyên lo sợ lối phê bình thiếu học thuật, cảm tính hoặc lý luận vô lý luận, lại thiên về góc nhìn chính trị, đạo đức, qui chụp. Anh nói rằng: Năm nay tôi 20 tuổi Đảng, và tôi lo sợ LL-PB đang là một sân chơi thiếu luật, và không công bằng. Tại sao anh T.M.H được nói đi mà cuốn sách Về một hiện tượng phê bình nói lại, lại không được phát hành? Chúng ta luôn hô hào viết, hô hào đổi mới, nhưng sẽ đăng ở đâu?” Nhà văn Văn Chinh nói khá dài, nhưng thiếu mạch lạc nên không ai hiểu anh định nói gì; đến lúc quá giờ qui định, Chủ tịch đoàn rung chuông anh vẫn tuyên bố là “tôi còn một ý nữa”. Nhà LL-PB Nguyễn Hoà tự nhận là thuộc phái phê bình đao búa, chỉ trích lối viết phê bình quá cũ của một số “cây đa cây đề”. Và làm “đứng tim” cử tọa khi anh nói rằng: “Nếu một ngày báo còn in những bài LL-PB của Trần Thanh Đạm, Hồ Sĩ Vịnh, Trường Lưu, cha con tiến sĩ Đỗ Văn Khang thì không có phê bình. Nếu một ngày nhà văn Trịnh Đình Khôi còn làm nhà LL-PB thì tôi rất lo ngại cho văn học chúng ta. Nhà LL-PB Phan Trọng Thưởng (Viện trưởng Viện văn học) từ tốn nói “Anh T.M.H đã nhầm Viện Văn học với Hội Nhà văn, bởi Viện chuyên nghiên cứu có tính hàn lâm chứ không phải là một bộ phận của Hội Nhà văn; anh Vũ Quần Phương khen một người không có bằng tiến sĩ lại viết phê bình nhiều hơn những người có bằng cấp cao ở Viện, chỉ làm vừa lòng một người mà làm mếch lòng nhiều người; thực ra Viện có nhiều nhà nghiên cứu có học hàm, học vị mà chính họ cũng có nhiều công trình có giá trị. Viện cũng chưa bao giờ chủ trương phê bình chạy theo khoa học thuần tuý như có người đã hồ đồ nhận xét”. Nhà văn Bùi Đình Thi to khoẻ đứng trước micro bị cánh truyền hình chiếu đèn quay phim không chịu nổi đã “quát” truyền hình “Không được chiếu đèn khi tôi đang nói” làm hội nghị cười ồ. Ông phê phán việc “ém nhẹm” một số cuốn sách văn học xuất bản gần đây. Cuốn Thượng đế thì cười đã in trọn trên mấy số tạp chí Nhà văn rồi, mà NXB Hội Nhà văn in thành sách lại bị xếp kho, để giám đốc NXB thuỗn mặt vì số tiền in sách không “quay” được. Ông khẳng định nghệ thuật không vi phạm luật cấm thì cứ để phát hành cho nhân dân và thời gian thẩm định. Cách nói bỗ bã của Bùi Đình Thi làm cho hội nghị nóng lên. Sau tiếng vỗ tay dài, ông trở về ghế ngồi lại có vẻ thiếu tự tin, hỏi to: “Nói có được không?” và nghe có tiếng “Được rồi” lẫn tiếng cười vui vẻ... Việc nói lên sự thật ở hội nghị, có người cho rằng “sự thật mất lòng”, có người lại bảo là “thuốc đắng giã tật”. Nhưng điều đó đã chứng tỏ tính dân chủ của hội nghị này.

Tổng kết Hội nghị, nhà thơ Hữu Thỉnh kết luận: “Khiêm tốn mà nói, là Hội nghị đã thành công bước đầu”. Điều đó có nghĩa là nhiều vấn đề học thuật, đi vào chiều sâu của LL-PBVH ta còn phải tiếp tục. Việc ra một tờ báo dành riêng cho LL-PB là một bức xúc của cả giới LL-PB. Nếu có “sân chơi riêng”, chắc LL-PB sẽ rôm rả hơn, chuyên sâu hơn, và mới mẻ hơn.

Hà Nội, 8-2003
B.C
(176/10-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H

  • MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.

  • INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.

  • HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).

  • VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.

  • HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.

  • NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.

  • L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire  francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.

  • NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).

  • ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre),  tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.

  • MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.

  • HÀ VĂN LƯỠNG  Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.

  • TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.

  • HOÀNG TẤT THẮNG                1. Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải chỉ là một vị lãnh tụ, một người thầy kiệt xuất của phong trào cách mạng Việt mà còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt hiện đại. Bác Hồ chưa bao giờ có ý định trở thành nhà thơ, nhà văn, song các tác phẩm thơ văn ngôn ngữ của Người đã trở thành một mẫu mực, một phong cách đặc biệt cho các thế hệ người Việt tiếp tục nghiên cứu và học tập.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNĐề tài và chủ đề là hai trạng thái cơ bản nhất, bao dung hết thảy làm nên cấu trúc tổng thể tác phẩm tiểu thuyết. Hai trạng thái đó trong liên kết tương tác gây dẫn nên tất cả những yếu tố ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Chúng còn đồng thời gây dẫn nên những yếu tố ý nghĩa liên quan nảy sinh trong tư duy tiếp nhận ngoài ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Nhưng dẫu có như thế, chỉ có thể hình dung cho đúng đắn được đề tài, chủ đề theo định hướng duy nhất thấy chúng trong cấu trúc nội bộ tổng thể tác phẩm tiểu thuyết.