Hoàng Phủ Ngọc Tường - người kể chuyện cổ tích chiến tranh

15:19 28/08/2008
PHẠM PHÚ PHONG"Tôi ngồi nhớ lại tất cả nỗi trầm tư dài bên cạnh mớ hài cốt khô khốc của anh Hoàng. Trước mắt tôi, tất cả cuộc sống đầy những hùng tráng và bi thương vốn đã từng tồn tại trên mảnh đất rừng này, giờ đã bị xoá sạch dấu tích trong sự câm nín của lau lách. Như thế đấy có những con đường không còn ai đi nữa, những năm tháng không còn ai biết nữa, và những con người chết không còn hắt bóng vào đâu nữa...

Cỏ lau mọc lên thật nhanh, nhưng không nhanh bằng trí nhớ bội bạc của con người. Tôi thấy buốt lòng như một cơn đau dạ dày trong ý nghĩ (1). Những dòng suối của chương mở đầu cho Bản di chúc của cỏ lau, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết bằng những câu như vậy. Đó cũng là tiền đề mở cho câu chuyện về những người yêu nước của thành phố Huế, những người đầu tiên đi mở rừng và dọn địa bàn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mà di sản của họ để lại cho đời sau chỉ là một bản di chúc viết bằng máu vùi dưới cỏ lau...
Tôi không phải là người có thói quen phân chia văn học theo các khái niệm, các phạm trù có sẵn, hoặc theo hệ thống đề tài, hệ thống thể loại... nhưng dưới bước chân kiên trì và chăm chỉ của thời gian, tất cả rồi trở thành chuyện cũ. Những sự tích anh hùng trong hai cuộc kháng chiến của chúng ta rồi cũng sẽ trở thành cổ tích mà thôi. Mới hơn 25 năm trôi qua mà nghe chừng như đã xa xôi lắm, chuyện gian khổ ở rừng, lòng chung thuỷ, đức hy sinh, tình đồng chí... tưởng chừng như truyền thuyết, đối với thế hệ sinh sau đẻ muộn chưa sống qua một ngày chiến tranh đã đành, lại còn với cả một số người rũ áo bước ra từ khói lửa của chiến tranh. Gần 100 trang sách của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một lời tự nhắc nhở với chính mình, với mọi người về âm vang chưa xa xôi ấy.
William Burto cho rằng: "Cổ tích là một thể loại văn học, người ta nghĩ đến sự huyền truyền, đồn đại đến cái không phải là thực tại hoặc là một thực tại diệu kỳ" (2). Chuyện cổ tích chiến tranh của Hoàng Phủ Ngọc Tường đúng là một thực tại diệu kỳ về cuộc sống và chiến đấu của những con người có độ dư về phẩm chất làm người, ném cả thời trai trẻ của mình vào gian khó đói rét, bệnh tật, chống lại cuộc săn lùng của kẻ thù, của thú dữ ở trại Cây Thị, tại vùng núi có tên là Khe Trái. Những ngày đói cơm nhạt muối. Những ngày chui bờ ngủ bụi. Những cuộc chiến đấu quyết liệt với kẻ thù, với thú rừng... Nghĩa là những sự kiện, những sự việc, những chi tiết khá điển hình phổ biến trong cuộc chiến tranh mà người đọc đã từng trải qua hoặc từng nghe, từng đọc trong nhiều tác phẩm viết về chiến tranh lâu nay. Nhưng được Hoàng Phủ Ngọc Tường kể lại bằng giọng điệu riêng, mà chỉ ở anh mới có. Đó là lối tư duy văn học mang đậm dấu ấn cách cảm nhận và cảm nghĩ chủ quan của tác giả, mà Hoàng Ngọc Hiến đã từng cho rằng đó là tư duy của một tiểu loại văn học ét-xe (3) và "Hoàng Phủ Ngọc Tường là một tác giả viết ét-xe". Là một người viết bút ký tài hoa,"trong văn học hiện đại Việt Nam, sau Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn thứ hai nổi bật lên với thể ký, ký của anh có cái là truyện, có cái là tuỳ bút, có cái mới chỉ là ghi chép"(4), hay cũng có thể nói là đặc trưng nổi bật của Hoàng Phủ Ngọc Tường là bao giờ cũng soi rọi thực tại dưới hơi thở của những cảm nhận chủ quan của mình. Do đó, ngay cả trong sáng tác có một cốt truyện hẳn hoi như Bản di chúc của cỏ lau, cũng được anh trần thuật bằng ngôn ngữ của người viết ký. Đó là ưu điểm, đồng thời cũng là nhược điểm trong thi pháp biểu hiện của anh, nên chuyện của anh không phải bao giờ cũng thành công, cũng thu hút người đọc, có nhiều "tạng" khác nhau trong thị hiếu thẩm mỹ. Câu chuyện của Bản di chúc của cỏ lau bắt đầu từ "một ngày không được bình yên, theo anh Bình quay lại vùng Khe Trái để tìm mộ anh Hoàng", người viết đã lần ngược lại cuộc chiến đấu của những người yêu nước, dưới bóng cờ của cách mạng. Nhưng với sức liên tưởng mạnh mẽ của người viết bút ký, truyện không chỉ đơn thuần là một cuộc chiến đấu hy sinh gian khổ đến ngày thắng lợi hoàn toàn, mà còn bao nhiêu truyện khác: chuyện chiến đấu với kẻ thù, với thú rừng, với nỗi cô đơn, chuyện về tờ di chúc như lời thề im lặng của dòng máu cuối cùng Tổ quốc muôn năm, về sự hy sinh đang có nguy cơ "trở thành sự lãng phí vô nghĩa của lịch sử", chuyện người may mắn thoát chết trở về sau chiến tranh mang theo với mình chiến tích của một cuộc chiến đấu kinh hồn, để rồi cố thu nhỏ mình lại thành một dấu chấm không ai buồn để ý trên chuyến xe cuộc đời mà chỗ ngồi đã dành cho những người khác". Bên cạnh đó, còn có sự tích của người Pakô, về thiên nhiên, các phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc miền Tây, chuyện về các loài vật, các thú dữ ở rừng... Cũng như con người, trong thế giới loài vật, có loài vô hại, nhưng cũng có loài là kẻ thù nguy hiểm đối với con người. Điều quan trọng hơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ tự mình tạo nên sự liên tưởng cho mình, mà luôn tạo nên những tầng sâu ngữ nghĩa, buộc người đọc muốn hiểu vấn đề một cách thấu đáo, phải cùng tác giả chui xuống những tầng hầm sâu khuất, tìm đến những mạch ngầm của chiều sâu liên tưởng mới, như một phép ẩn dụ nghệ thuật. Chẳng hạn, anh đưa chi tiết chiếc đèn dầu chôn theo hài cốt mấy chục năm dầu vẫn còn thắp sáng, để nói "chính ngọn lửa bé bỏng kia, tôi nghĩ đã thắp sáng cuộc chiến đấu của anh Hoàng hai mươi năm trước, trong những đêm rừng tối thẳm", anh đưa chi tiết ngồi xe nhờ bị bà chủ, vợ một quan chức hành xác "người bạn đồng hành tội nghiệp của tôi muốn thu nhỏ người lại thành một cái chấm để khỏi làm phiền bà ta" để nói đến cái giả định xót xa về cuộc chiến tranh qua, những người đã hy sinh xương máu có còn chỗ nào trên chuyến xe cuộc đời, trong lòng mọi người hay chỉ là một dấu chấm hết của một trang đời, dẫu rằng họ vẫn may mắn tồn tại!
Nếu nói mỗi người đều có một tâm hồn được kiến tạo bằng một chất liệu riêng, một cách thức riêng, một tâm thức sáng tạo riêng, thì dẫu cho những điều mà Hoàng Phủ Ngọc Tường viết ra có đôi điều dự báo, là tín hiệu của tương lai, nhưng thế giới tâm hồn anh vẫn thuộc về quá khứ, bị ám ảnh bởi một quá khứ dữ dội mà anh có can dự vào và may mắn là người được trở về sau chiến tranh với mặc cảm luôn thấy mình có lỗi với những người đã khuất. Một cảm giác không yên, luôn lo sợ về sự quên lãng, sự bội bạc của chính mình. Điều này trở đi trở lại vò xé tâm hồn anh, khi thì điềm tĩnh "tôi ngồi nhớ lại tất cả trong nỗi trầm tư dài... thấy buốt lòng như lên cơn đau dạ dày trong ý nghĩ". khi thì da diết đến riết róng: "Bây giờ tôi đang có tất cả những gì mà các anh ấy không bao giờ có nữa, cả cuộc sống cụ thể, đất nước và cả hành tinh, để làm một người. Và trĩu nặng hơn tất cả, chính là khát vọng thiêng liêng mà chính các anh ấy đã để lại cho những người sống còn. Tôi hiểu, nếu một ngày nào tôi không còn cảm thấy nữa cái sức nặng để lại ấy của những người vắng mặt, thì chính là tôi đã sống khác đi, như một kẻ đáng nguyền rủa"(5), hoặc có khi cái vốn là sức mạnh chủ quan của người viết ký lại được hóa thân thành con chim bói cá ngồi trầm tư về cuộc đời, đặt ra bao nhiêu điều vấn tâm về phận người như tiếng vọng lại từ trong sâu thẳm của tâm linh. Gần đây, đọc tập thơ mới in của anh, tập Người hái phù dung, tôi lại bắt gặp cái cảm giác buồn bã quay về Thành cổ Quảng Trị quê anh, về phía cuối con đường cỏ lau, trong bài Về chơi với cỏ:
Thưa rằng người đã quên tôi
Tôi về chơi với ngọn đồi cỏ may
Một đường hoang một dấu giày
Một người ngồi một thoáng ngày bóng nghiêng.

Có người coi anh là một trong những tri thức miền đi theo cách mạng với một chủ nghĩa yêu nước rõ rệt, một trí thức có một tri thức sâu rộng đã kịp chuyển tải vào trang viết.
Riêng tôi, vẫn coi anh như một người đến cư ngụ trong đời không chỉ với tư cách là một nghệ sĩ để ngợi ca cái đẹp mà còn là một hành giả đi tìm cái chân, cái thiện; một con người không yên, luôn đòi hỏi ở mình với nỗi buồn khó nguôi ngoai về quá khứ, đang ngồi dõi tầm mắt về phía cuối đường chân trời, nhặt từng chiếc lá thu vàng và kể lại chuyện chiến tranh giữa hai bờ hư thực của thời gian vô định và cả không gian sương khói, trong nỗi xót xa, mòn mỏi của thân phận con người.
P.P.P

(nguồn: TCSH số 161 - 07 - 2002)

 


-------------------------------
(1) Những câu trong ngoặc trích từ Bản di chúc của cỏ lau, Nxb Kim Đồng, 1991.
(2) Nhập môn văn học, tr.12
(3) Tản văn và ét-xe-một thể ký đặc biệt,
Cửa Việt số 11, tr.72
(4) Phạm Xuân Nguyên -
Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường, trích Chân dung văn học Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, ĐHTH Huế xuất bản 1989, tr.79.
(5
) Ai đã đặt tên cho dòng sông, NXb Thuận Hoá 1985, tr.142

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.