Hoàng Phủ Ngọc Tường - người kể chuyện cổ tích chiến tranh

15:19 28/08/2008
PHẠM PHÚ PHONG"Tôi ngồi nhớ lại tất cả nỗi trầm tư dài bên cạnh mớ hài cốt khô khốc của anh Hoàng. Trước mắt tôi, tất cả cuộc sống đầy những hùng tráng và bi thương vốn đã từng tồn tại trên mảnh đất rừng này, giờ đã bị xoá sạch dấu tích trong sự câm nín của lau lách. Như thế đấy có những con đường không còn ai đi nữa, những năm tháng không còn ai biết nữa, và những con người chết không còn hắt bóng vào đâu nữa...

Cỏ lau mọc lên thật nhanh, nhưng không nhanh bằng trí nhớ bội bạc của con người. Tôi thấy buốt lòng như một cơn đau dạ dày trong ý nghĩ (1). Những dòng suối của chương mở đầu cho Bản di chúc của cỏ lau, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết bằng những câu như vậy. Đó cũng là tiền đề mở cho câu chuyện về những người yêu nước của thành phố Huế, những người đầu tiên đi mở rừng và dọn địa bàn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mà di sản của họ để lại cho đời sau chỉ là một bản di chúc viết bằng máu vùi dưới cỏ lau...
Tôi không phải là người có thói quen phân chia văn học theo các khái niệm, các phạm trù có sẵn, hoặc theo hệ thống đề tài, hệ thống thể loại... nhưng dưới bước chân kiên trì và chăm chỉ của thời gian, tất cả rồi trở thành chuyện cũ. Những sự tích anh hùng trong hai cuộc kháng chiến của chúng ta rồi cũng sẽ trở thành cổ tích mà thôi. Mới hơn 25 năm trôi qua mà nghe chừng như đã xa xôi lắm, chuyện gian khổ ở rừng, lòng chung thuỷ, đức hy sinh, tình đồng chí... tưởng chừng như truyền thuyết, đối với thế hệ sinh sau đẻ muộn chưa sống qua một ngày chiến tranh đã đành, lại còn với cả một số người rũ áo bước ra từ khói lửa của chiến tranh. Gần 100 trang sách của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một lời tự nhắc nhở với chính mình, với mọi người về âm vang chưa xa xôi ấy.
William Burto cho rằng: "Cổ tích là một thể loại văn học, người ta nghĩ đến sự huyền truyền, đồn đại đến cái không phải là thực tại hoặc là một thực tại diệu kỳ" (2). Chuyện cổ tích chiến tranh của Hoàng Phủ Ngọc Tường đúng là một thực tại diệu kỳ về cuộc sống và chiến đấu của những con người có độ dư về phẩm chất làm người, ném cả thời trai trẻ của mình vào gian khó đói rét, bệnh tật, chống lại cuộc săn lùng của kẻ thù, của thú dữ ở trại Cây Thị, tại vùng núi có tên là Khe Trái. Những ngày đói cơm nhạt muối. Những ngày chui bờ ngủ bụi. Những cuộc chiến đấu quyết liệt với kẻ thù, với thú rừng... Nghĩa là những sự kiện, những sự việc, những chi tiết khá điển hình phổ biến trong cuộc chiến tranh mà người đọc đã từng trải qua hoặc từng nghe, từng đọc trong nhiều tác phẩm viết về chiến tranh lâu nay. Nhưng được Hoàng Phủ Ngọc Tường kể lại bằng giọng điệu riêng, mà chỉ ở anh mới có. Đó là lối tư duy văn học mang đậm dấu ấn cách cảm nhận và cảm nghĩ chủ quan của tác giả, mà Hoàng Ngọc Hiến đã từng cho rằng đó là tư duy của một tiểu loại văn học ét-xe (3) và "Hoàng Phủ Ngọc Tường là một tác giả viết ét-xe". Là một người viết bút ký tài hoa,"trong văn học hiện đại Việt Nam, sau Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn thứ hai nổi bật lên với thể ký, ký của anh có cái là truyện, có cái là tuỳ bút, có cái mới chỉ là ghi chép"(4), hay cũng có thể nói là đặc trưng nổi bật của Hoàng Phủ Ngọc Tường là bao giờ cũng soi rọi thực tại dưới hơi thở của những cảm nhận chủ quan của mình. Do đó, ngay cả trong sáng tác có một cốt truyện hẳn hoi như Bản di chúc của cỏ lau, cũng được anh trần thuật bằng ngôn ngữ của người viết ký. Đó là ưu điểm, đồng thời cũng là nhược điểm trong thi pháp biểu hiện của anh, nên chuyện của anh không phải bao giờ cũng thành công, cũng thu hút người đọc, có nhiều "tạng" khác nhau trong thị hiếu thẩm mỹ. Câu chuyện của Bản di chúc của cỏ lau bắt đầu từ "một ngày không được bình yên, theo anh Bình quay lại vùng Khe Trái để tìm mộ anh Hoàng", người viết đã lần ngược lại cuộc chiến đấu của những người yêu nước, dưới bóng cờ của cách mạng. Nhưng với sức liên tưởng mạnh mẽ của người viết bút ký, truyện không chỉ đơn thuần là một cuộc chiến đấu hy sinh gian khổ đến ngày thắng lợi hoàn toàn, mà còn bao nhiêu truyện khác: chuyện chiến đấu với kẻ thù, với thú rừng, với nỗi cô đơn, chuyện về tờ di chúc như lời thề im lặng của dòng máu cuối cùng Tổ quốc muôn năm, về sự hy sinh đang có nguy cơ "trở thành sự lãng phí vô nghĩa của lịch sử", chuyện người may mắn thoát chết trở về sau chiến tranh mang theo với mình chiến tích của một cuộc chiến đấu kinh hồn, để rồi cố thu nhỏ mình lại thành một dấu chấm không ai buồn để ý trên chuyến xe cuộc đời mà chỗ ngồi đã dành cho những người khác". Bên cạnh đó, còn có sự tích của người Pakô, về thiên nhiên, các phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc miền Tây, chuyện về các loài vật, các thú dữ ở rừng... Cũng như con người, trong thế giới loài vật, có loài vô hại, nhưng cũng có loài là kẻ thù nguy hiểm đối với con người. Điều quan trọng hơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ tự mình tạo nên sự liên tưởng cho mình, mà luôn tạo nên những tầng sâu ngữ nghĩa, buộc người đọc muốn hiểu vấn đề một cách thấu đáo, phải cùng tác giả chui xuống những tầng hầm sâu khuất, tìm đến những mạch ngầm của chiều sâu liên tưởng mới, như một phép ẩn dụ nghệ thuật. Chẳng hạn, anh đưa chi tiết chiếc đèn dầu chôn theo hài cốt mấy chục năm dầu vẫn còn thắp sáng, để nói "chính ngọn lửa bé bỏng kia, tôi nghĩ đã thắp sáng cuộc chiến đấu của anh Hoàng hai mươi năm trước, trong những đêm rừng tối thẳm", anh đưa chi tiết ngồi xe nhờ bị bà chủ, vợ một quan chức hành xác "người bạn đồng hành tội nghiệp của tôi muốn thu nhỏ người lại thành một cái chấm để khỏi làm phiền bà ta" để nói đến cái giả định xót xa về cuộc chiến tranh qua, những người đã hy sinh xương máu có còn chỗ nào trên chuyến xe cuộc đời, trong lòng mọi người hay chỉ là một dấu chấm hết của một trang đời, dẫu rằng họ vẫn may mắn tồn tại!
Nếu nói mỗi người đều có một tâm hồn được kiến tạo bằng một chất liệu riêng, một cách thức riêng, một tâm thức sáng tạo riêng, thì dẫu cho những điều mà Hoàng Phủ Ngọc Tường viết ra có đôi điều dự báo, là tín hiệu của tương lai, nhưng thế giới tâm hồn anh vẫn thuộc về quá khứ, bị ám ảnh bởi một quá khứ dữ dội mà anh có can dự vào và may mắn là người được trở về sau chiến tranh với mặc cảm luôn thấy mình có lỗi với những người đã khuất. Một cảm giác không yên, luôn lo sợ về sự quên lãng, sự bội bạc của chính mình. Điều này trở đi trở lại vò xé tâm hồn anh, khi thì điềm tĩnh "tôi ngồi nhớ lại tất cả trong nỗi trầm tư dài... thấy buốt lòng như lên cơn đau dạ dày trong ý nghĩ". khi thì da diết đến riết róng: "Bây giờ tôi đang có tất cả những gì mà các anh ấy không bao giờ có nữa, cả cuộc sống cụ thể, đất nước và cả hành tinh, để làm một người. Và trĩu nặng hơn tất cả, chính là khát vọng thiêng liêng mà chính các anh ấy đã để lại cho những người sống còn. Tôi hiểu, nếu một ngày nào tôi không còn cảm thấy nữa cái sức nặng để lại ấy của những người vắng mặt, thì chính là tôi đã sống khác đi, như một kẻ đáng nguyền rủa"(5), hoặc có khi cái vốn là sức mạnh chủ quan của người viết ký lại được hóa thân thành con chim bói cá ngồi trầm tư về cuộc đời, đặt ra bao nhiêu điều vấn tâm về phận người như tiếng vọng lại từ trong sâu thẳm của tâm linh. Gần đây, đọc tập thơ mới in của anh, tập Người hái phù dung, tôi lại bắt gặp cái cảm giác buồn bã quay về Thành cổ Quảng Trị quê anh, về phía cuối con đường cỏ lau, trong bài Về chơi với cỏ:
Thưa rằng người đã quên tôi
Tôi về chơi với ngọn đồi cỏ may
Một đường hoang một dấu giày
Một người ngồi một thoáng ngày bóng nghiêng.

Có người coi anh là một trong những tri thức miền đi theo cách mạng với một chủ nghĩa yêu nước rõ rệt, một trí thức có một tri thức sâu rộng đã kịp chuyển tải vào trang viết.
Riêng tôi, vẫn coi anh như một người đến cư ngụ trong đời không chỉ với tư cách là một nghệ sĩ để ngợi ca cái đẹp mà còn là một hành giả đi tìm cái chân, cái thiện; một con người không yên, luôn đòi hỏi ở mình với nỗi buồn khó nguôi ngoai về quá khứ, đang ngồi dõi tầm mắt về phía cuối đường chân trời, nhặt từng chiếc lá thu vàng và kể lại chuyện chiến tranh giữa hai bờ hư thực của thời gian vô định và cả không gian sương khói, trong nỗi xót xa, mòn mỏi của thân phận con người.
P.P.P

(nguồn: TCSH số 161 - 07 - 2002)

 


-------------------------------
(1) Những câu trong ngoặc trích từ Bản di chúc của cỏ lau, Nxb Kim Đồng, 1991.
(2) Nhập môn văn học, tr.12
(3) Tản văn và ét-xe-một thể ký đặc biệt,
Cửa Việt số 11, tr.72
(4) Phạm Xuân Nguyên -
Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường, trích Chân dung văn học Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, ĐHTH Huế xuất bản 1989, tr.79.
(5
) Ai đã đặt tên cho dòng sông, NXb Thuận Hoá 1985, tr.142

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐÀO THÁI TÔNTrong bài Mê tín dị đoan trên chuyên mục Tiếng nói nhà văn (Văn Nghệ số 52 (2032), ngày 26 - 12 - 1988), nhà văn Thạch Quỳ thấy cần phải "phân định cho được văn hóa tâm linh, văn hóa nhân bản, văn hóa tín ngưỡng để phân biệt nó với mê tín dị đoan".

  • NGUYỄN THỊ XUÂN YẾNLà một nội dung mở, tín hiệu thẩm mỹ (THTM) đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu khoa học quan tâm, đặc biệt là các nhà nghiên cứu văn học đã bàn luận khá rộng.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHTrong mười hai con giáp, từ lâu, người ta đã nhận thấy chỉ có mười một con là động vật có thật, được nuôi trong gia đình, là gia cầm (như gà - dậu), là gia súc (trâu - ngưu) hoặc động vật hoang dã (như hổ - dần)... Còn con Rồng - Thìn thì hoàn toàn là động vật thần thoại.

  • Vừa qua tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị Dịch thuật Giới thiệu Văn học Việt Nam ra thế giới, quy tụ trên một trăm dịch giả trong và ngoài nước đến từ hàng chục quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau như Pháp, Mỹ, Đông Âu, Trung Quốc... Đây được xem là bước khởi đầu cho việc quảng bá tốt nhất văn học Việt ra thế giới.

  • NGUYỄN THANH HÙNGTiếp nhận văn học thực sự diễn ra dưới ảnh hưởng của đặc điểm cuộc sống trong cộng đồng lý giải tác phẩm. Có được ý nghĩa phong phú của văn bản nghệ thuật là nhờ sự tiếp nhận của các thành viên độc giả tạo ra. Chính những ý nghĩa ấy chứ không phải bản thân văn bản, thậm chí không phải cả dụng ý của tác giả là điểm khởi đầu cho "chiều dài thương lượng" về giá trị của tác phẩm văn học trong lịch sử.

  • HỮU ĐẠTKhi giảng dạy thơ ca của bất cứ nhà thơ nào, ngoài những bài được đưa vào sách giáo khoa việc giới thiệu thêm những bài thơ khác trong sự nghiệp sáng tác của tác giả là rất cần thiết. Tuy nhiên, khi giới thiệu cần có những cách phân tích và đánh giá đúng đắn mới phát huy được việc mở rộng kiến thức cho học trò. Nếu không sẽ gây ra những tác dụng ngược lại.

  • HOÀNG TẤT THẮNG         (Vì sự trong sáng tiếng Việt)

  • ĐẶNG MẬU TỰU- PHAN THANH BÌNH5 năm hoạt động mỹ thuật sôi nổi, đầy trăn trở và suy nghĩ đã trôi qua, Phân- Chi hội mỹ thuật Thừa Thiên Huế đã có nhiều cơ hội để nhìn lại đánh giá những gì mà mình đã làm được.

  • VŨ ĐỨC PHÚCChữ Hán trong hàng chục thế kỷ là chữ dùng chính thức của quốc gia Việt . Trong các thế kỷ ấy văn thơ chữ Hán khi thì là văn thơ duy nhất, khi thì là bộ phận chủ yếu hoặc quan trọng, không thể thiếu, của lịch sử văn học Việt bên cạnh văn thơ chữ Nôm.

  • PHẠM QUANG TRUNGHội Nhà văn Việt Nam, bên cạnh tính chính trị- xã hội, trước hết là một tổ chức nghề nghiệp. Muốn có sức mạnh, cơ cấu và hoạt động của Hội phải tương thích với đặc thù nghề viết văn.

  • NGUYỄN VĂN HOASuốt những năm phổ thông, do phải kiểm tra hoặc phải thi cử nên bắt buộc tôi phải thuộc các bài thơ có vần trong sách giáo khoa. Trên ba mươi năm rồi tôi vẫn thuộc những bài thơ đó. Mặt khác thời tôi học phổ thông ở vùng Kinh Bắc hiệu sách có rất ít sách thơ bán và lúc đó cũng không có tiền để mua. Nguồn duy nhất là sách giáo khoa.

  • VÕ TẤN CƯỜNGLịch sử văn minh của nhân loại đã trải qua những phát kiến, khám phá vĩ đại về khoa học kỹ thuật và vũ trụ nhưng sự bí ẩn của tâm linh con người thì vẫn luôn là thách thức chưa thể giải mã.

  • Mối quan hệ của Chủ nghĩa Siêu thực với hội họa vẫn là một câu hỏi chưa được sáng tỏ, vấn đề khó khăn này đã được các nhà lịch sử mỹ thuật hé mở hơn khi chú ý ở khía cạnh hình tượng xảy ra trong các giấc mơ và coi đó là một hành vi đặc biệt của “phong cách” nghệ thuật hiện đại.

  • Cách đây vài hôm, tôi nói chuyện với một vị nữ tiến sỹ ở Viện nghiên cứu văn hoá nghệ thuật. Bà là một trưởng phòng nghiên cứu có thâm niên, rất thông thái về văn hoá. Trong lúc vui chuyện tôi nói rằng mình có ý định tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ. Bà bảo không thể đặt vấn đề như vậy, vì ngôn ngữ là một thành tố của văn hoá.

  • TRẦN HUYỀN SÂMVăn học là dòng sông chở đầy dư vị của cuộc đời, mà văn hóa là một trong những yếu tố kết tinh nên hương sắc ấy.

  • LÊ ĐẠTTình không lời xông đất để sang xuânTrước hết xin giải quyết cho xong một vấn đề đã được giải quyết từ rất lâu tại các nhà nước văn hóa phát triển.

  • HỮU ĐẠTMột trong những đặc điểm dễ nhận thấy về phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều chính là tính sáng tạo qua việc dùng từ. Có thể bàn đến nhiều trường hợp khác nhau, trong đó chữ Xuân là một ví dụ khá điển hình.

  • NGUYỄN THANH HÙNGLý do để có thể còn viết được những cái như là hiển nhiên rồi, thật ra có nhiều. Nói về văn thơ tức là nói về cuộc đời, về sự sống dù chỉ nói được một phần rất nhỏ của cả một vũ trụ đang trong cơn say biến đổi, mà đã thấy choáng ngợp lắm rồi.

  • THANH THẢOThơ như những ngọn đèn thuyền câu mực trong biển đêm. Lấp lóe, âm thầm, kiên nhẫn, vô định.