Trong tất cả các Ni sư Phật giáo mà tôi được biết và chịu ơn hoằng pháp vô ngôn, có lẽ người gần gũi với tôi nhất trong đời là Cố Đại Trưởng lão Ni chúng – Sư Bà Cát Tường - nguyên trụ trì chùa sư nữ Hoàng Mai ở Thủy Xuân – Huế.
![]() |
Nhưng tôi đang nói về cái màu lam đặc biệt của ngôi chùa sư nữ ấy, mà trong mắt tôi nó có vẻ như cực đoan (extrême) một cách… thích thú… còn hơn "tương chùa". Cái màu như không màu ấy là nếp từ bi mà vị Trụ trì của chùa đã hành thâm, không những cho chúng sinh hữu tình mà rộng ban cho cây cỏ. Bước vào chánh điện, rồi vào phòng khách hay phòng nghỉ, chỉ thấy một màu lam nhũn nhặn, đến nỗi người khách như thấy mình thoạt tiên chạm tay một thứ hư vô, thế rồi lại thấy như mình đang ở trong một thế giới hay thiên đường ảo với những bông hoa… giả làm bằng nhựa (có thể là… rẻ tiền, gọi là hoa ni lông) trang hoàng tường và bàn tiếp khách. Thứ "giả" duy nhất trong ngôi chùa ấy. Hỏi ra mới biết Sư bà thương hoa tiếc cỏ ngoài vườn đến nỗi cấm không được hái vào chưng trong nhà, "tội cho hoa, đau cho cây" nên đi mua hay xin hoa giả về trang hoàng, còn hoa thật thì được ra vườn ngắm. Về phương diện thẩm mỹ, thú thật tôi không chia xẻ được điều gì nên thơ từ những bông hoa làm bằng ni lông, nhưng càng không đồng tình lại càng lạ lẫm về chuyện thương hoa tiếc lá, mà vì vừa thương vừa yêu, nên không thể thiếu sự kề cận bên hoa… dù là… hoa giả. Đến nay vẫn còn là lạ trong tâm khi nhớ về. Hóa ra vị Ni sư vẫn là cô gái mơ hoa chân tình hết mực với đôi môi đặc biệt hồng ngay cả ở tuổi 90.
Tôi xin cúi đầu đảnh lễ tạ tội đã dùng ngôn ngữ đời thường cho một Đại Lão Ni trưởng tăng ni. Nhưng kinh Phật cũng có nói về tướng tốt trang nghiêm là một trong những hạnh làm người toàn hảo. Có thể nói trong suốt quãng đời độ sanh hoằng pháp của một nhà sư, không có ai thuyết phục đệ tử nhẹ nhàng đầy nhân ái như Sư bà, nhẹ nhàng nhưng lại không lay chuyển nỗi một khi đã quyết tâm hành động. Mấy mươi năm thủ quỹ cho công việc từ thiện xã hội của giáo hội trước và sau này, chuyên cần và tinh tấn, duy nhất một lòng cho đạo pháp và độ sinh, minh bạch và độ lượng, hĩ xã và cẩn trọng, không phung phí hảo tâm của thiên hạ, cần kiệm của bố thí và rộng thương đến mọi người, chí tâm và chí thành trong công việc xây dựng Đạo Pháp đến cho chúng sanh, Sư bà không bao giờ quản ngại khó nhọc và khó khăn, thần thái vẫn ung dung tự tại với lòng tin vào lượng lừ bi của con người. Có lần Sư bà bảo rằng, Phật luôn độ Sư bà, vì mỗi lần quỹ hết tiền !!! là y như Sư bà lại gặp thí chủ hảo tâm bất ngờ, thế rồi lại có phương tiện đi hành đạo – Nói với một nụ cười thật tươi và tôi chợt nhận thêm hơn một lần, đôi môi đỏ ấy quả nhiên là nét son huyền diệu thu phục con người, cảm hóa nghiệp dữ thành lành. Đẹp biết mấy!
Có thể nói Ni chúng là một tập thể có niềm tin kiên cố với Đạo Pháp hầu như tuyệt đối. Quyết tâm xây dựng Đạo pháp để phục vụ chúng sanh của các ngài có sức mạnh vô song không ngờ. Từ chăm lo sức khỏe thể xác cho đến tinh thần của chúng sinh, họ đều xả thân thực hiện. Còn nhớ chính quí cố Sư bà Diệu Không, Diệu Trí và Cát Tường là ba vị Trưởng lão ni nhiệt tâm nhất trong ý tưởng xây dựng Phật Học Viện Huế. Từ năm 1995, các vị đã không nản lòng, chí tâm chí thành thuyết phục Ôn Hòa thượng Thích Thiện Siêu đồng ý, có khi quì lạy kêu xin. Lúc ấy quỹ chưa có đồng nào cho việc ấy, và nói chung đất nước còn nghèo, khó khăn phức tạp về mọi mặt, nhưng các vị chỉ lấy tâm quyết chí ra mà hứa, hầu như với tay không. May sao việc thành lập Phật Học Viện đã thành công mỹ mãn 4 năm sau, như có phép mầu mà thành, phép mầu ở nơi duyên lành của thập phương, như Sư bà nhỏ nhẹ khiêm tốn bảo. Khi Phật Học Viện Hồng Đức khai giảng, Cố Trưởng lão ni Diệu Không viên tịch, chỉ còn Sư bà Diệu Trí và Sư bà Cát Tường tham dự với gương mặt sáng ngời và nụ cười thầm lặng.
Chính nhờ Phật Học Viện mà tôi có dịp được gần Sư bà trong nhiều năm. Bởi vì trân quí Phật Học Viện là nơi rèn luyện trí tuệ cho tăng ni sinh trẻ, tương lai của Đạo Phật, nên Sư bà rất quan tâm đến sự đóng góp của mọi tầng lớp Phật tử, cư sĩ. Dạo ấy tôi được Hòa Thượng Viện trưởng Thích Thiện Siêu (Ôn Từ Đàm) yêu cầu về giảng môn Triết học trong những khóa đầu ở Học Viện. Mỗi lần như thế tôi lại được Sư bà rất thương, thu xếp cho tôi ở lại tịnh thất Hoàng Mai vào buổi trưa, và ngay cả buổi tối, vì phải giảng khóa cấp tốc trong một tuần. Hoàng Mai và Hồng Đức kề bên nhau. Buổi trưa tôi được ni sư trẻ đón qua Hoàng Mai ăn cơm trưa. Thôi thì khỏi nói, những buổi cơm chay ngon dị thường trong không khí se lạnh của tháng chạp (dịp nghỉ Giáng Sinh ở Âu châu) làm sao quên được trong đời. Vườn trúc lá đùa trong gió, và lắm khi mưa rơi sàn sạt trên tàu chuối, có ngày mưa ngâu ru kinh qua cung tơ lá nhãn và tôi thì được săn sóc chu đáo bằng những nụ cười và ánh mắt hiền, cơm chay ngon lành. Nhớ nhất là món nấm mối đầu đông. Khi cơn mưa lụt đầu tiên rầm rập đổ xuống vườn chùa, vẽ nên những con suối nhỏ trong veo lên cát, dẫn đến phía hàng rào um tùm sau chùa, đã nghe các ni sư trẻ kháo nhau đi hái nấm mối trong mưa. Và trong đời, cho đến nay, chưa có món cao lương mỹ vị nào ngon hơn món xôi nấm mối và nấm mối hấp rau răm ở chùa Hoàng Mai dạo ấy.
Liêu của Sư bà ngăn làm hai căn nhỏ, phía trước thờ Phật (với hoa ni lông!) và phía sau giường nghỉ của Sư bà. Từ chối mấy cũng không xong, Sư bà nhất định nhường cho tôi sập nằm của Sư bà, lại còn mang thêm chăn ấm, săn sóc từng 5 phút một xem tôi có ổn không, cứ lo giường chiếu của người đi tu quá đơn sơ. Nhưng nhà sư có biết đâu kẻ tục lụy đang thấy mình như nhập vào chốn non bồng thoát tục.
Cho nên nằm xuống là tôi đã ngủ ngay, một phần vì trái giờ và đi xa mệt mỏi, một phần nhờ hơi ấm trìu mến bao bọc quanh mình. Khi thức dậy đã thấy nước chè xanh để sẵn, nhìn ra thấy Sư bà ngồi ở bàn chăm chú trì kinh. Những giờ phút đầm ấm trong đạo vị mở cho tôi thấy được thế giới hiền hòa, ngọt lành có thể có được trên thế gian đầy cay chua này. Cơm chay chùa Hoàng Mai lúc nào cũng thanh đạm với rau dưa, tương chao của chùa tự làm, vì tiền đâu mà có để mua các thứ chay giả mặn đóng hộp Đài Loan Hồng Kông, về sau thành mốt ở các chùa trong Nam ngoài Bắc và cả miền Trung, cả Huế nữa?
Triết lý sống thanh đạm và an lành của đạo Phật được hành thâm thật nghiêm túc dưới mái chùa ấy. Và bỗng nhiên việc đi về dạy học của tôi lại trở nên việc đi học đầy thú vị trong nhiều năm – Xin đừng hỏi tôi học điều gì cao xa. Có lần tôi dẫn một đoàn bạn Đức đến viếng Huế, sau khi đã đi khắp nơi từ Bắc vô Nam, thăm di tích thắng canh đền đài, ngày cuối tôi dẫn cả đoàn lên thăm Sư bà Hoàng Mai và xin ăn cơm chay của chùa. Sư bà lúc ấy đã hơn 80, vẫn hoạt bác và dí dõm trước đám người cồng kềnh to lớn như bạn quen lâu đời: "Tôi không nói được tiếng Đức nên phải nhờ chị Kim Lan dịch, còn các ông bà lại không hiểu tiếng Việt nên cũng nhờ chị Lan dịch, hóa ra cả hai bên chúng ta đều dở như nhau nhỉ!“ và khi tiễn khách ra về "Nếu các ông bà muốn hơn tôi thì hãy học tiếng Việt nhé". Suốt buổi thọ trai có nhiều tiếng cười. Lúc ra về, các bạn tôi bảo rằng, chuyến viếng thăm Việt nam, tiếp xúc nhiều nơi nhiều chỗ, nhưng chính ở Hoàng Mai họ gặp được một con người Việt nam đặc biệt, cuộc đi bỗng có ý nghĩa hơn. Hỏi tại sao, trả lời "họ đã gặp nhiều nhân vật của các tôn giáo khác nhau, nhưng chưa thấy có một người đi tu nào khả ái và nhân ái trong cùng một nghĩa trong suốt trọn vẹn như thế". Thú vị đầy ngạc nhiên của họ là qua cuộc diện kiến ấy, mọi định kiến từ góc nhìn Âu châu cho rằng đạo Phật yếm thế đã tan biến nhường cho ấn tượng sống động lạc quan nhập thế trong thong dong, trong giải thoát qua dáng đi, cách ngồi, tiếng nói, nụ cười, nhũn nặn tinh tế, ân cần nhân hậu của vị Sư nữ đẹp như cây lão mai già nhất trên sân. Tôi đã nghĩ đến màu hồng của đôi môi… và có thể đã chợt cười tự mãn một mình…
Nhưng nếu học Phật mà học ưu điểm, học toàn hảo, học màu mè như thế thì quả thật thiếu sót… bài học tôi nhận được bỗng quay chiều trả đũa lại tôi. Xôi nấm mối tôi đã được thưởng thức biết bao lần, mưa trên sân giọt ngắn giọt dài, lão mai thay lá đâm chồi, mai rụng rồi mai khai mấy độ, sự thọ ơn tri ngộ cứ nhân lên với tháng với năm.
Một ngày mùa đông, tôi đến Hoàng Mai như mỗi khi về nước lên hầu Sư bà, mới biết Sư bà vừa bị ngã nặng gãy xương cũng chỉ vì trong lúc bệnh không muốn làm nhọc thị giã thức đêm, tự dậy đi một mình. Khá nặng, gãy xương bánh chè, lại thêm xương sườn, ống quyển, lúc ấy Sư bà đã 90. Tôi vào và giật mình. Vị lão ni ngày nào tươi mát nay gầy trơ xương, cái giường nhỏ bé bỗng rộng thênh thang vì người nằm trên đó như một khúc cây khô – tuy vẫn đẹp – đẹp lạ thường, da ấy, xương ấy trong suốt như ngọc, toát lên mùi hương trong lành khác hẳn với mùi bệnh tật, đến nỗi người bạn đi theo phải kêu lên ngạc nhiên. Lúc ấy Sư bà còn hôn mê. Ngày hôm sau trở lại, sự biến đổi làm ngẩn người. Lần này bộ xương đang rên la. Vì quá già nên các bác sĩ quyết định không giải phẫu và băng bột, để quá trình bình phục dần dần tự nhiên, có nghĩa là nằm yên và không được cử động nhiều. Đau ghê gớm! Khổ ghê gớm vì vừa bị cầm tù thân xác vừa bị những vết đứt gãy tra tấn từng giây.
Và Sư bà của tôi! Nơi đôi môi hồng ấy biến thành một cái hố nhỏ đen ngòm, từ thân thể trong suốt ấy trở thành nối đọa đày tột độ. Vì đau quá không thể ngậm miệng, mà buộc phải há miệng, - không còn đẹp chút nào nữa! - từ đó thốt ra không dứt tiếng kêu như một phản xạ tự nhiên. Người tôi chao đảo khi nghe những tiếng kêu thống khổ của nhà sư, tưởng đã tu luyện thành thép không còn biết đau. Không, không! tôi lầm khi đã nghĩ như thế. Điều tôi đã nghĩ phải khác đi chứ! Ai mà không đau? Sư bà của tôi kêu hàng tràng như thế này, rõ ràng mồn một: "ui chao đau quá quá! Nam mô A di đà Phật", "ui chao đau quá đau quá! Nam mô A Di Đà Phật!" liên tiếp kết thành một chuỗi, khá đều như hộp máy Đài Loan bấm nút là có tiếng Nam Mô A Di Đà. Nhưng chuỗi này khác cái máy không biết đau, vọng từ cái hang người- tấm thân ngũ uẩn vô thường sờ sờ trước mắt-, là tiếng kêu đau, mà đau quá đỗi.
Thoạt tiên xót lòng, muốn rớt nước mắt, nhưng cùng lúc bỗng chấn động tâm can. Lắng chừng mới thấy. Chưa bao giờ đau – khổ và Phật gần nhau đến như thế trong tiếng kêu này. Nghe như một chuỗi kệ nhập với nhau làm một, tuồng như Đau và Phật là một, trong cùng một hơi thở. Sư bà kêu đau như một em bé khóc la, mà tiếng niệm Phật của nhà sư cũng hồn nhiên vô ngại đầy trẻ thơ, như tuồng chưa có một lần tu luyện, làm cho người nghe chỉ thấy thương với thương đến vô cùng thương. Có khi đau làm con người độc địa dã tâm, có khi tu Phật làm xa người, chơi vơi thoát tục, có khi đau làm ta quên Phật, có khi tưởng TU là không còn biết đau, cả mọi trường hợp đều ít nhân tính. Ở Sư bà đau là Phật và Phật là đau. Tấm thân người phải đau mới có Phật, thấy Phật. Có phải đây là thủ đắc của một kẻ giác ngộ? Chỉ biết tiếng kêu đau và tiếng niệm Phật ấy từ đó luôn vang vọng theo tôi…
Tưởng e Sư bà không vượt qua nỗi lần chấn thương trầm trọng ấy, vậy mà một năm sau, Sư bà lành bệnh, có thể cử động và ngồi dậy được, nhưng từ ấy trí nhớ kém đi, mỗi khi lên thăm chỉ biết cầm tay nói vài câu rời rạc nhưng kim thân thì vẫn sáng ngời như cũ, đôi môi đỏ vẫn lại hàm tiếu như xưa – trong lúc này tôi đã đi được một bước xa hơn với tri kiến ngũ uẩn vô thường - cho đến ngày Sư bà trở bước về cõi Tịnh.
Lễ tang được cử hành thật trọng thể. Tôi về trể nhưng may còn kịp lên Hoàng Mai lạy Sư bà nhập tháp, nơi Sư bà đã từng dắt tay tôi đến xem chỗ trú ẩn vĩnh viễn của mình. Tịnh thất Hoàng Mai đã khác hẳn (quí sư cô đã bắt đầu xây dựng khi Sư bà lâm bệnh), cổng Tam Quan uy nghi và thành xây kiên cố, sân cũng được lát gạch quí phái. Riêng dãy hoàng mai lạc lõng đứng bơ vơ trong lúc chùa ngập hoa phúng điếu và hoa trang hoàng lộng lẫy chưa từng có. Từng tràng hoa lan diễm lệ vây phủ quan tài và lối đi. Nghi lễ trang trọng vô cùng. Người đến viếng đông nghịt chen nhau thảy vô số hoa tươi xuống huyệt thay lời tiễn biệt, chen chân không lọt.
Tôi băng qua sân, lẻn vào căn liêu cũ bỏ trống. May cảnh vật còn như xưa, vẫn màu lam u nhã lững lờ bôi xám không gian thành hư vô, sự im lặng vô cùng đột nhiên làm nghẹt thở, trên tường những cành hoa giả còn treo nguyên chỗ cũ, trên bàn bình hoa giả còn câm lặng hơn. Nhớ nỗi phản cảm đầu tiên vẫn còn đeo đuổi khi thấy chúng trong căn phòng mà tôi nghĩ lẽ ra phải được trang hoàng bằng những cành hoa hay bó bông tươi mát! Nay ngoài kia hàng vạn bông hoa thật, hoa tươi, đang vây phủ vị sư nữ mà tôi kính yêu. Bỗng như thấy đôi môi đỏ mấp máy cười: Giả và Chân, công án tìm CHÂN trong GIẢ và thấy được GIẢ trong CHÂN đã nằm sẵn từ lâu mà tôi u mê không biết, trong lúc hồn tôi, trong giờ phút ấy, bỗng nghiêng về cành hoa dấu kín dưới vẻ giả tạo bên ngoài lượng từ bi sâu thẳm và trí tuệ thẩm mỹ đầy nhân ái của người Thầy vừa giã từ cõi tạm…
Huế tháng 9 nhuận năm Giáp Ngọ
Nguồn: Thái Kim Lan - Tia Sáng
PHẠM THỊ CÚC
Chú tên là Đô, người làng Thanh Thủy, nhưng không phải làng Thanh Thủy Chánh có Cầu Ngói, mà là Thanh Thủy Thượng, bây giờ gọi là Thủy Dương, cùng quê với nhà thơ Phùng Quán. Chú không phải là nhà thơ nên ngất ngưỡng kiểu khác, đặc biệt hơn.
NGÔ THỊ Ý NHI
Ở Huế, có những buổi sáng cứ thích nằm nghe tiếng con nít rủ nhau đến trường ríu rít như chim. Bình yên đến lạ! Thành phố nhỏ bé, nhịp sống không vội vàng, những con đường hiền lành, êm ả trẻ con dễ dàng đi bộ.
Kỷ niệm 30 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 - 22/12/2019) và 75 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2019)
PHẠM THUẬN THÀNH
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Năm Nhâm Tý (1672), chúa Trịnh xua 180 ngàn quân vào Nam, có ý vượt sông Gianh đánh chúa Nguyễn. Trấn thủ Bố Chính là Nguyễn Triều Văn hoảng sợ chạy vô Kim Long cấp báo với Hiền Vương (tức chúa Nguyễn Phúc Tần).
TÔN THẤT BÌNH
BÙI KIM CHI
Ngày xưa, cách đây 60 năm, ở đường Duy Tân Huế từ cầu Trường Tiền đi xuống, qua khỏi Morin (cũ), đi một đoạn, có một địa điểm mang cái tên nghe là lạ Ngọ Phạn Điếm. Càng lạ và đặc biệt hơn nữa, Ngọ Phạn Điếm chỉ đón khách vào ăn một bữa trưa (demi-pension) trong ngày là học sinh của Trường Nữ Trung học Đồng Khánh Huế mà thôi.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Bút ký
KỶ NIỆM 20 NĂM CƠN LŨ LỊCH SỬ 1999
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
NGUYỄN DƯ
Ngày xưa thi đỗ tiến sĩ… sướng lắm!
Nghe đồn như vậy. Ít ra cũng được vua biết mặt chúa biết tên. Được cả làng, cả tổng đón rước về tận nhà. Chữ nghĩa gọi là rước tiến sĩ vinh quy bái tổ.
PHI TÂN
Hồi trước, khi làng xã tôi còn đoàn đội tập thể hay hợp tác xã sản xuất nông nghiệp thì đàn trâu ở làng cũng của hợp tác luôn. Trâu được các hộ xã viên nhận về nuôi để ăn chia công điểm. Nhà mô có nuôi trâu thì con cháu trong nhà phải nghỉ học sớm để chăn trâu hàng ngày.
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Ngày thơ ấu tôi đã bao lần ngủ ngon giấc trong lời ầu ơ của mẹ:
Kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969 - 2019) và 50 năm Ngày mất của Người (02/09)
HỒ NGỌC DIỆP
Kỷ Niệm 72 Năm Ngày Thương Binh - Liệt Sĩ (27/7/1947 - 27/7/2019)
PHẠM HỮU THU
DƯƠNG PHƯỚC THU
Nhà thơ, nhà cách mạng Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại làng Hội An, nơi xưa kia thường gọi là Faifô (vì làng này ở gần cửa Đại An nên quen gọi Hải Phố mà ra thế) nay Hội An đã lên cấp là thành phố thuộc tỉnh Quảng Nam; quê nội Nguyễn Kim Thành ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
Dáng thế của đồi Hà Khê như một con linh thú vừa tách khỏi đất mẹ, rời tổ uống mấy ngụm nước bên bờ dòng Linh Giang. Quay đầu hướng về quê mẹ, đất tổ Trường Sơn như một lời từ biệt, lòng rộn buồn vui. Một nhát gươm chí mạng của thuật sĩ Cao Biền, thân thú mang nặng vết thương vẫn còn hằn sâu ở chân đồi.
ELENA PUCILLO TRUONG
(Viết cho những người bạn cầm phấn)
Kỷ niệm Ngày báo chí Cách mạng Việt Nam 21/6
NGUYỄN XUÂN HẢI
ĐÔNG HÀ
33 năm đổi mới trong Văn học Thừa Thiên Huế
NGUYỄN ĐỨC HÙNG
Một chiều cuối năm 2018, tôi nhận được tấm thiệp mời nhân dịp Lễ mừng tuổi chín mươi của nhà giáo Trần Thân Mỹ và kỷ niệm 65 năm ngày cưới của ông bà Trần Thân Mỹ và Dương Thị Kim Lan. Nếu tính từ mốc tôi được ông đặt bút ký vào hồ sơ chuyển ngành từ Quân đội về làm việc tại Phòng Văn hóa Thông tin (VHTT) thành phố Huế là tròn 35 năm, trong đó có 7 năm (1983 - 1990) tôi được làm việc trực tiếp với ông trước khi ông nghỉ hưu. Ông là vị thủ trưởng khả kính đầu tiên của tôi, là người đã giáo dục, đào tạo và có ảnh hưởng rất lớn đối với tôi.