ĐẶNG ANH ĐÀO
Có thể nói rằng Những thiên đường mù là một câu chuyện dệt bằng những mảnh ký ức trên nền hiện tại.
Ảnh: internet
Chưa hoàn toàn là thời gian đồng hiện - một kỹ thuật du nhập từ phương Tây và sản phẩm của thế kỷ điện ảnh - nhưng kết cấu truyện là sự đan cài, song song của quá khứ và hiện tại, thậm chí hiện tại nhiều khi chỉ là một cái cớ để ký ức tuôn chảy. Nếu tính số lượng trang giấy thì những trang quá khứ dày hơn hiện tại. Cho đến khi với cái chết của người cô (dù người mẹ vẫn còn) thì thật lạ lùng, dĩ vãng đã chấm dứt đối với nhân vật chính: “dĩ vãng chỉ là dĩ vãng”, ký ức của cô gái gặp gỡ hiện tại, và câu chuyện được đóng lại: lần đầu tiên hình ảnh của tương lai xuất hiện với những “giảng đường và phi trường xa xôi” lại cũng chính là lúc kết thúc trang cuối cùng của Những thiên đường mù.
Cả ba người đàn bà án ngữ trong câu chuyện - Hằng nhân vật chính, mẹ Hằng và bà cô tên là Tâm xuất hiện qua lời kể của Hằng - đều mang nặng ký ức. Đối lập lại là một số nhân vật của truyện: mụ Nần, người đàn bà tham ăn khác thường như trong cổ tích và ca dao, hoặc cậu Chính, em trai của mẹ Hằng… Những người này có thể có quá khứ nhưng không có ký ức, hoài niệm: mụ Nần lập tức quên ngay những thứ mụ vừa ăn xong; còn cậu Chính thì dường như chẳng nhớ gì về kinh nghiệm của cải cách ruộng đất khi trở thành thủ trưởng của một cơ quan tuyên huấn ở Hà Nội và để rồi lại quên hết của hai thời kỳ ấy khi thái thịt và “cuốn nem thoăn thoắt”, nấu ăn thuê (?) cho một nhóm thanh niên tại một cái “ốp” nào đó ở Moskva nhân dịp xuất dương du học tận trường AON.
Cũng như tất cả những người đàn bà, điểm sáng quy tụ những nhớ nhung và hoài niệm ở Hằng và bà Quế (mẹ Hằng) cũng như cô Tâm, đó là tình yêu, là hình ảnh một người đàn ông đã tan biến. Và ở đây họ có chung một điểm sáng, dù với mẹ là “một tình yêu không thể đo đếm, không thể tìm kiếm lại”; với Hằng đó là “bố tôi, một tình yêu chưa kịp biết mặt đã chôn vùi trong bùn đất”; và với người cô, đó không chỉ là “niềm trìu mến, tình yêu khắc khoải”, mà là cả một dòng máu, “một phiên bản đã thất lạc”, một quá khứ vĩnh viễn tan biến mà cô đang “xé xác mình ra” để phục hồi lại cho đứa cháu… Cho dù dưới mắt Hằng, đó chỉ là một thiên đường mù, một thiên đường muộn mằn, phung phí.
Trong ba người đàn bà, mẹ của Hằng đã tìm thấy một phần nào quá khứ trong hiện tại, dù không phải là sự tiếp nối hình ảnh người chồng dòng họ Đỗ qua người em trai là cậu Chính và những đứa cháu. Bởi vậy ký ức của bà không dày bằng hai người kia. Còn ký ức của cô Tâm có mỏng hơn Hằng, nhân vật chính đồng thời là người kể chuyện xuất hiện ở ngôi thứ nhất - một lợi thế để kể lại ký ức - nhưng ở cô Tâm nó có phần nặng nề hơn, “kỳ bí” và lạnh lẽo hơn. Quả là bên Hằng, đến con chó già cũng “ngửi thấy lờ mờ cái mùi của quá khứ”.
Nhưng ký ức của Hằng không gắn liền với một huyết thống, một ý chí phục thù, mà đó là cả một thế giới phong phú màu sắc, âm điệu, mùi hương của tuổi ấu thơ tràn ngập thi vị quê hương, vả lại không hoàn toàn là quá khứ. Điều lạ lùng là dường như hiện tại lần đầu tiên trông thấy những bông tuyết, một khúc hát của Pugatrova, hoặc một đám đông dân Nga “hàm chứa cái gì đó trì đọng… một thứ an bình của làn nước hồ không gió bão, không luân chuyển”, lại cũng không phải là cái gì hoàn toàn mới mà cũng đang biến thành những ký ức đã gợi lại qua những ao bèo, hay một khúc hát Việt Nam từng làm các cô gái đi lao động ở xứ người gào lên vì thương nhớ. Điều đáng chú ý nữa là khi được gặp lại hình ảnh của quá khứ từng khiến Hằng khắc khoải thì nỗi buồn vẫn không chấm dứt: ở cô không bao giờ đạt tới tình trạng thỏa mãn khi nắm bắt được quá khứ trong hiện thực. Bởi thế, tôi tạm gọi đây là hoài niệm về những thiên đường đã mất, có nghĩa là không hẳn về những gì đã có trong thực tế. Bởi quá khứ ở đây dù có là những mảnh của thiên đường, thì vẫn là thiên đường mù, đó không phải là thiên đường mơ ước. Mọi thứ đều đã thấm thía len lỏi “độc tố của nỗi sầu không thể cắt nghĩa”, của định kiến, trì trệ. Triền sông xưa đã “khắc khoải tiếng kêu của lũ chim di trú bay…”; mùi hoa nhài tỏa hương… bên dòng nước tiểu nồng nặc của đám người say bia; khu vườn của thiên đường tuổi trẻ là một khu đường đầy cỏ, hoang dại; âm điệu đầu tiên vọng vào giấc ngủ đứa bé là tiếng rao hàng ời ợi và câu hát gào lên của một kẻ tàn phế tật nguyền, để trang sức, những bông tai của đứa bé gái lên 10 đã “lạnh lẽo băng giá” như “hoa tàn rải xuống nấm mồ hoang”… Và hoài niệm ám ảnh nhất, than ôi, lại là một ao bèo tím ngát hoa nhưng ngưng đọng, mệt mỏi, một thứ nước “làm chết ngạt dễ dàng những kẻ không biết bơi”. Và “ánh mặt trời chói chang nhất cũng chỉ hâm nóng được làn nước mỏng bên trên”.
Bởi tất cả những gì đã đè nặng lên mình trong quá khứ, nên khi tiếp xúc với một cái gì không giống với thế giới của mình, những mặc cảm xuất hiện ở Hằng. Và không chỉ của riêng Hằng, của riêng những cô gái nghèo, những cánh chim di thực, mà ở đây, ngòi bút của Dương Thu Hương đã điểm được phần nào nét tâm trạng của nhiều người Việt Nam hiện nay. Vốn đã bao năm tưởng mình hơn hẳn về mọi mặt - tâm lý đặc biệt của những người ít được phép tiếp xúc - nay có cơ hội so sánh một trạng thái ngược lại xuất hiện. Mặc cảm từ chiều cao của mình, từ thân hình gầy còm, từ sự nghèo khổ âu lo, tới những “cuộc chia ly nham nhở” ở sân bay Nội Bài… Ôi, nỗi đau của chúng ta! Còn cậu Chính có cái diễm phúc là bao giờ cũng thỏa mãn, gần như không mặc cảm, có lẽ bởi chính điều đó đã nói trên ở cậu, không có nhiều ký ức hoài niệm.
Và trong Những thiên đường mù không phải ít định kiến. Riêng ở đây tôi muốn phân biệt định kiến của nhân vật Hằng với định kiến của Dương Thu Hương. Đành rằng nhà văn có quyền xây dựng những nhân vật đầy định kiến. Đành rằng Hằng có quyền nhìn cậu Chính và cải cách ruộng đất từ góc độ cảm nhận ấy. Vả chăng vấn đề xung đột giữa các thế hệ (đại diện qua cậu Chính và Hằng) là vấn đề nóng hổi hiện nay. Cũng không thể nói mọi sai lầm đã qua đều là tất yếu của lịch sử - nếu vậy thì ta đã chẳng nói đến chuyện “sửa sai” và việc nhìn lại quá khứ sẽ là thừa. Và nếu cứ mỗi người tự thấy mình, đặc biệt là ngành mình, cơ quan mình, thế hệ mình v.v… lại bị chạm nọc mỗi khi gặp phải nhân vật phản diện (tương ứng với các thứ trên) trong tác phẩm thì thật khốn khổ cho nhà văn. Song thật sự là ở tác phẩm này, tôi thấy tác giả có chỗ định kiến, “xâu chuỗi”, đơn giản hóa. Có cái gì đó khiên cưỡng, gò ép trong sự hư cấu, những nhân vật nguyên phiến, một chiều như cậu Chính, mợ Thành và hai nông dân cốt cán nọ. Vô phúc cho những ông già, vô phúc cho những kẻ “đã nghiên cứu xong chủ nghĩa Mác-Lênin”, những kẻ mà vinh quang, quá khứ được tính bằng những chục năm tuổi Đảng: họ không thể có một số phận khá hơn trong tiểu thuyết này! Vô phúc cho những kẻ đã được đội cải cách xâu chuỗi! Nhưng có lẽ định kiến đã không cho phép Dương Thu Hương thấy rằng thực tế, nông dân không phải hoàn toàn bị dắt mũi bởi những con người như cậu Chính, mụ Nần, gã Bích. Tôi nghĩ rằng hiện tượng ấy là sự thể hiện một phần bản thân người nông dân, là cái chất của họ. Mặt khác, trong cuộc đời cũng như trong tác phẩm, dù sao, vẫn có những con người xấu hơn cậu Chính, mợ Thành… nhiều. Cái chính là tôi mong được thấy họ bớt cứng đờ vì phải minh họa cho một ác cảm của nhà văn và mong họ cũng tự nhiên như phía “bên kia” của tác giả (như Lãng Tử, như Hằng, như cô Tâm…).
Cảm giác chung toát lên từ cuốn tiểu thuyết là một tâm hồn cuồng nhiệt, sự nhạy bén với những gì đang diễn ra. Sức hấp dẫn ấy đã biện hộ một phần nào cho những cái vội vã, thiếu thận trọng của Dương Thu Hương.
Định kiến của tác giả có thể khiến hư cấu nên những nhân vật thiếu tự nhiên, nguyên phiến. Song những định kiến của các nhân vật như cô Tâm và nhất là Hằng và một số thanh niên khác của câu chuyện không phải không phản ánh một thực trạng hiện nay. Đặc biệt là những mặc cảm nỗi sầu xứ, hoài niệm về một xứ sở cội nguồn, một thiên đường đã mất (vả chăng đã bao giờ thực sự nó tồn tại?) bàng bạc trong suốt tác phẩm niềm mơ ước về những gì tốt đẹp xứng đáng hơn, đó chính là những nét tâm trạng rất sâu sắc không chỉ của những kẻ tha hương (ở bất kỳ phương trời nào) mà còn của nhiều người dân Việt Nam bình thường hiện nay đang sống trên quê hương mình đột nhiên bừng tỉnh, ý thức lại về mình.
Huế - Hà Nội - Tháng 4 - 1989
Đ.A.Đ
(TCSH39/09&10-1989)
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.
PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.
NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.
HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.
NGUYỄN VĂN THUẤN (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.
PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.
THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.
HÀ ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.
LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.
BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.
HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.
LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.
TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.
HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.
NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.
NGUYỄN KHẮC PHÊ Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).
PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.