Ngắn dần đều chọn vấn đề khó, vấn đề cơ bản, yếu tính của văn học hiện đại/ đương đại để đối diện, luận bàn: cái nhìn trong sáng tạo, phê bình văn học hôm nay, bản lĩnh và bản sắc của người cầm bút, hướng đến một tư duy lý luận văn học động và mở, sự cách tân trong thơ, tác giả nữ và biểu đạt giới, người viết trẻ tự vẽ những đường bay… Sự đa diện đó của nội dung cuốn sách mở ra nhiều chiều kích, vừa cụ thể vừa khái quát trên nhiều lĩnh vực của văn học: sáng tác, tiếp nhận - nghiên cứu phê bình.
Vững vàng trong lý thuyết, đọc nhiều và đọc đa dạng, bao quát cả nền và đỉnh, cả trung tâm lẫn ngoại biên, quan tâm những người viết văn trẻ, quan tâm cả đời sống văn học trong học đường và văn chương mạng, ý thức về căn tính dân tộc, về khí quyển, thổ nhưỡng văn hóa Việt, tiếp nhận có chọn lọc thành tựu nghiên cứu về lý luận văn học Việt Nam và thế giới, vừa là nhà thơ vừa là nhà phê bình, đam mê và tỉnh táo…, Hoàng Đăng Khoa trình ra những tiểu luận có chiều sâu và khúc chiết, sinh động và tinh tế, thường đặt trong sự cộng sinh phê bình và sáng tác, trong “hoàn cảnh hậu hiện đại”, trong thế mở và động của tư duy lý luận văn học. Hoàng Đăng Khoa thực sự “song hành và đối thoại” với đọc và viết, đối thoại với thời gian và đối thoại với chính mình. Duy lý, duy mĩ và duy cảm, ba trong một. Với bản lĩnh tư duy độc lập, anh không sa vào đám đông, tránh được lối phê bình xu phụ, diễn - bình - tán… Tâm thế nhập cuộc, trên đường xa vừa đi vừa nhìn lại. Không áp đặt, diễn ngôn mở. Dị ứng với quan phương, với phê bình nửa vời, nhìn thấy mà chưa thấu. Anh thẳng thắn chỉ ra và phản biện, nói như Lê Đạt là “đối thoại chứ không đối thụi, tranh luận mà vẫn sang trọng”. Với 7 tập phê bình, tiểu luận, từ Gặp đến Ngắn dần đều, đã hiện lên rõ nét, đầy đặn gương mặt, phong cách và cá tính phê bình văn học Hoàng Đăng Khoa.
Suy cho cùng, câu chuyện của văn chương là câu chuyện của cái nhìn và biểu đạt. Không phải ngẫu nhiên, Nghệ thuật của cái nhìn mở đầu cho cuốn sách. Đây là tiểu luận có dung lượng dài nhất trong Ngắn dần đều. Có thể nói, tiểu luận này thể hiện khá rõ tạng phê bình, cách nhìn và diễn ngôn của Hoàng Đăng Khoa. Nghệ thuật của cái nhìn như một lời cảnh báo về sự vô cảm, cực đoan, về hiện trạng văn bản tác phẩm ra đời bởi “cặp mắt lạnh tanh, nhìn gần, của thứ máu lạnh”.
Từ thực tiễn tiếp nhận thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng nói riêng, thực tiễn tiếp nhận thơ cách tân nói chung, Hoàng Đăng Khoa phân tích luận bàn về tính khả dụng và giới hạn của lý thuyết tiếp nhận. Trên cơ sở đối chiếu/ tham chiếu giữa các hệ hình thơ, giữa truyền thống và hiện đại/ đương đại, bài viết nhấn mạnh sự khác biệt và đổi mới trong tiếp nhận là ở mối quan hệ: văn bản - người đọc. Chúng ta dễ dàng nhận ra độ trễ trong cách đọc, cách nhìn, kể cả sự lúng túng, chóng mặt, thậm chí quay lưng của không ít người đọc trước tròng trành và đứt gãy từ cái nhìn trong tư tưởng hệ hình, trong “hoàn cảnh hậu hiện đại”. Trong khi đó, với những ca khó như Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng, bên cạnh sự nỗ lực cách tân cần được ghi nhận, cũng phải thẳng thắn nhìn nhận “thơ của họ cách tân không đồng bộ (nghĩa không theo kịp chữ, hình thức không đi liền với nội dung, hoặc ngược lại…), và không đồng đều (mức độ thành công ở mỗi bài/ câu không giống nhau)” dẫn tới sự tiếp nhận, đánh giá nhiều khi trái ngược, thậm chí đẩy về đầu mút của hai thái cực. Trong bối cảnh ấy, vai trò, trách nhiệm “song hành và đối thoại” của người làm phê bình văn học rất quan trọng. Trước thực tế “không có lý thuyết nào là toàn bích, độc tôn”, Hoàng Đăng Khoa gợi mở giải pháp: “cách hành xử khôn ngoan là tỉnh táo gạn đục khơi trong, đa dạng hóa lý thuyết tiếp nhận”. Thẳng thắn và chân thành, anh mở rộng đối thoại, gợi ra những kinh nghiệm, bài học cho nhiều phía: “Đối với tiếp nhận - phê bình, từ đây người ta có ý thức hơn trong việc nâng tầm đón nhận khi gặp thơ khó, thiết tạo cách đọc mới khi gặp thơ lạ, ứng xử với thơ bằng tâm thế không định kiến, bằng thái độ không phủ nhận sạch trơn… Đối với sáng tác, từ đây người ta táo bạo hơn trong cách tân, dũng cảm hơn trong thể nghiệm… Đối với lý luận thơ, từ đây người ta không đóng khung lý thuyết, không đông cứng thể loại, coi trọng vai trò hướng đạo của lý luận đối với sáng tác, tiếp nhận - phê bình”.
Các phương diện của hai tiểu luận trên đây, đã được tác giả luận sâu hơn trong các tiểu luận khác của tập sách: Hướng đến một tư duy lý luận văn học động và mở, Về phê bình văn học hôm nay, Văn chương và câu chuyện đi tìm nhân dạng… Sự liên kết ấy hình thành mạch diễn ngôn cộng hưởng, logic và cũng là một liên văn bản tạo nên Ngắn dần đều.
Mỗi thế hệ người cầm bút có vẻ đẹp riêng, ưu thế và cả hạn chế riêng. Đổi mới là tất yếu. Gần nửa thế kỷ qua, hiện đại hóa là một quá trình đã được khẳng định trong văn học dân tộc. “Đứng về phe cái khác”, cởi mở, dân chủ và trách nhiệm, Hoàng Đăng Khoa luôn có cái nhìn biện chứng, ý thức trước trang giấy trắng, để tạo ra “những tờ sạch”. Cổ vũ cho cái mới, cái khác…, nhưng anh không quá khích. Anh cũng cảnh báo chớ nên xét nét, vô tình tạo ra sự đối đầu giữa truyền thống với hiện đại. Người viết trẻ có đáng bị bắt bẻ, tên một tiểu luận, là một câu hỏi mở, trực diện, chia sẻ và đầy cảm thông. Đây là một đoạn trong bài viết ấy: “Mỗi thế hệ cầm bút thuộc về một môi sinh riêng, kiến tạo và sở hữu phông nền riêng, đường bay riêng, hệ giá trị riêng. Thế giới vạn trạng, văn chương muôn hình. Văn chương không có lối đi chung cho hai người. Nếu cứ cao đàm khoát luận để can gián bắt bẻ người viết trẻ, áp đặt chân lý lên họ, thì sẽ không tạo sinh được ‘một cuộc gặp gỡ’ nào cả, ngược lại, chỉ làm gia tăng sự xung đột đứt gãy thế hệ mà thôi”.
Trong thời chộn rộn, trong “thế giới phẳng”, khi văn học chuyển động giữa nhiều đường biên mong manh, đan chéo nhau, rất cần cái nhìn trách nhiệm, có lý có tình, khoa học và thực tiễn, liên tài và dự báo. Hơn nữa, “tất cả những người lớn đều từng là trẻ con, nhưng rất ít người trong số đó nhớ về điều đó”. Hoàng Đăng Khoa nhấn mạnh, “mấu chốt vẫn là câu chuyện tài năng”, những người viết trẻ “phải đương đầu và vượt qua các trở ngại khi tìm cách diễn đạt bản thân”. Với kiến văn sâu rộng, với cái nhìn cởi mở, kết hợp giữa lý luận văn học hiện đại/ đương đại và “cây đời xanh tươi” của thực tiễn văn chương, các tiểu luận của anh thường hướng về phía ánh sáng, chữ nghĩa tạo sinh trong thế của tay ga, trên hành trình “tự vẽ đường bay”, “vẫy vào vô tận”.
Cách đặt tên cho các bài viết, cũng như giọng văn tiểu luận thể hiện nội lực ngôn từ đa dạng, hàm súc và giàu chất thơ của tác giả cuốn sách. Mở đầu mỗi tiểu luận là một đề từ. Nếu tập hợp lại sẽ có nhiều câu thơ tự do giàu cảm niệm, vừa khơi gợi vừa dẫn dụ, ví như: người tình như bài thơ/ đọc một đời không hết, ý nghĩ như đại ngàn/ ngựa tung vó đi hoang/ rừng thăm thẳm chân trời tít tắp/ đường tự do có là đường cũ bao giờ, trong màn sống hư ảo/ không gì thực bằng giấc mơ… Văn tiểu luận của Hoàng Đăng Khoa có phong vị tùy bút, nhưng không tứ tán lan man, mà mạch lạc sáng rõ, chắc đặc kiệm lời. Có cái gì tự nhiên như hơi thở. Tự nhiên trong lặng lẽ.
Người chết ngang và đóa buồn nở dọc, tên một tiểu luận như khiêu khích sự tiếp nhận. Bài viết mang đến vẻ đẹp của nỗi buồn, giúp người đọc hiểu thêm lý do của thơ. Bởi vì, “điều đáng sợ không phải là buồn đau, mà là hoặc trơ lì ráo hoảnh, hoặc buồn đau không tận độ. Và những trang sách khiến người đọc khóc được là những trang sách đạt đạo trót đời”. Luận về nỗi buồn mà thấm thía bởi sự chân thành. Nhiều khi luận về nước mắt và yêu thương, tri thức bỗng trở thành yếu đuối. Đó là minh triết của trái tim, của chữ nghĩa thành thật. Có nhiều kiểu sống chết, vấn đề là “làm sao để cái sinh có thể lộng lẫy như đóa hoa mùa hạ, theo đó cái tử có thể lặng lẽ và đẹp đẽ như chiếc lá mùa thu, như cách nói mà nhà thơ Rabindranath Tagore từng xác quyết”.
Nghiêm cẩn trong học thuật, tâm cảm nghệ sĩ và lịch lãm trong văn hóa, văn chương, thông tuệ và khoáng hoạt, Hoàng Đăng Khoa thực sự mang đến những tiểu luận “động và mở”, có sức truyền cảm hứng tới cả người đọc và người viết.
Thì ra, tên sách Ngắn dần đều được Hoàng Đăng Khoa đặt chơi, liên quan đến việc các tiểu luận trong tập sắp xếp theo thứ tự dung lượng chữ từ dài đến ngắn. Đọc Ngắn dần đều, tôi lại thấy cuốn sách mở dần ra chân trời hy vọng vào một thế hệ phê bình văn học mới, trong đó có Hoàng Đăng Khoa.
Đêm đã chìm vào sâu lắng, tôi cứ hình dung phía ngôi nhà văn chương số 4 Lý Nam Đế, hoa đại cứ đổ bóng vào trang viết. Nói như nhà thơ Thổ Nhĩ Kỳ Can Yucel là, “hoa vẫn lặng thầm nuôi lớn nỗi cô đơn”.
L.A.P
(TCSH55SDB/12-2024)
MAI VĂN HOAN
Nhà thơ Trần Vàng Sao, tên thật là Nguyễn Đính, sinh năm 1941 ở thôn Vỹ Dạ, thành phố Huế.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc “Gánh gánh… gồng gồng…”, Hồi ký của Xuân Phượng, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, 2020; Giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam năm 2020)
VŨ NGỌC GIAO
Có một lần tôi đã chia sẻ với nhà văn Vĩnh Quyền rằng, tôi rất thích Rừng Na uy.
VƯƠNG HỒNG
Ưng Bình Thúc Giạ Thị quê phường Vỹ Dạ, thành phố Huế, sinh ngày 9 tháng 3 năm 1877, mất ngày 4 tháng 4 năm 1961. Ông là cháu nội Tuy Lý vương Miên Trinh, một nhà thơ nổi tiếng với "Vỹ Dạ Hợp tập".
NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG
Trên Tạp chí Sông Hương số 379 (9/2020) và Báo Thừa Thiên Huế, tôi đã có giới thiệu lại cuốn “Truyện Kiều, bản Nôm của Hoàng gia triều Nguyễn, lưu trữ tại thư viện Anh quốc” do Nguyễn Khắc Bảo công bố (Nxb. Lao động ấn hành, 2017).
NGUYỄN THANH TÂM
Trương Đăng Dung làm thơ từ cuối thập niên 70 của thế kỷ trước. Thầm lặng, con người thi ca ấy ẩn khuất sau dáng vẻ của một nhà lý luận, để hơn 30 năm sau, cựa mình trỗi dậy.
HOÀNG THỊ THU THỦY
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (04/10/1920 - 04/10/2020)
LÊ TUẤN LỘC
MAI VĂN HOAN
Trải qua hàng nghìn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, họ tìm mọi cách đồng hóa dân tộc ta nhưng bất thành. Chúng ta có chịu ảnh hưởng về tư tưởng, về giáo dục, về văn hóa, nghệ thuật… của họ nhưng dứt khoát không bị đồng hóa.
LƯỜNG TÚ TUẤN
“Thì đem vàng đá mà liều với thân” - Nguyễn Du
Kỷ niệm 255 năm ngày sinh (1765 - 2020), 200 năm ngày mất Danh nhân văn hóa thế giới - Đại thi hào Nguyễn Du (16/9/1820 - 16/9/2020)
NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG
ĐỖ LAI THÚY
Trong mọi địa hạt, sự đắc thắng của cuộc sống là sáng tạo
H. Bergson
BỬU Ý
Nguyễn Đức Sơn sinh 18/11/1937 tại làng Dư Khánh (Thanh Hải) gần bên bờ biển Ninh Chữ tỉnh Ninh Thuận.
LÊ THÀNH NGHỊ
Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ xuất hiện từ đầu những năm bảy mươi của thế kỷ XX, khi chiến tranh diễn ra vô cùng ác liệt trên cả hai miền đất nước. Quảng Bình, quê hương của Lâm Thị Mỹ Dạ là một trong những vùng đất bom đạn tàn khốc nhất.
NGUYỄN HỮU QUÝ
Biển. Những con sóng. Những con sóng làm nên biển cả mênh mang. Hay diễn đạt cách khác, biển bắt đầu từ sóng.
LÝ HOÀI THU
Lưu Quang Vũ mở đầu sự nghiệp cầm bút bằng thơ. Đó là phần Hương cây trong tập Hương cây - Bếp lửa in chung với Bằng Việt.
THÁI HẠO
Tặng Mẹ và Em!
Bờ bến lạ chút tự tình với bóng - Tuệ Sỹ
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Nguyễn Thị Lê Na không thuộc lớp “cây bút trẻ” (chị sinh đúng vào năm đất nước thống nhất - 1975), lại phải gánh nhiệm vụ quản lý một tạp chí văn nghệ, nên sau “Bến Mê”, đến nay chị mới xuất bản “Đắng ngọt đàn bà”(*) (ĐNĐB).
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Một ngày giáp Tết Canh Tý, Từ Hoài Tấn* mời bạn bè đến quán cà phê nhìn sang Vương Cung Thánh Đường dự ra mắt tập thơ tuyển của ông (Thơ Từ Hoài Tấn, Nxb. Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2020).