Hiện trạng việc thi hành chính sách, pháp luật trong hoạt động biểu diễn nghệ thuật

09:45 01/12/2010
Vừa qua, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội đã tổ chức giám sát tình hình hoạt động và thi hành chính sách pháp luật về nghệ thuật biểu diễn (NTBD) tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Thừa Thiên Huế và Gia Lai; tổ chức lấy ý kiến giới chuyên môn và các nhà quản lý. Ủy ban cũng đã làm việc với lãnh đạo các Bộ: Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL), Nội vụ, Tài chính về tình hình hoạt động và thi hành chính sách pháp luật về NTBD. Chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với GS Nguyễn Minh Thuyết, đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch Ủy ban sau khi ông tham gia đoàn giám sát nói trên.

GS Nguyễn Minh Thuyết - Ảnh: congluan.vn

Phóng viên (PV): Đề nghị GS cho biết việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) về NTBD hiện nay ở nước ta?

GS. Nguyễn Minh Thuyết (NMT):
Nhìn chung, hệ thống văn bản quản lý trong những năm qua đã đóng vai trò quan trọng định hướng và có tác động tích cực đến sự phát triển của NTBD. Chính sách xã hội hóa đã tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của các đơn vị nghệ thuật ngoài công lập và sự đổi mới của các đơn vị công lập.

Tuy nhiên, việc xây dựng và ban hành VBQPPL còn chậm. Hơn nữa, những VPQPPL đã ban hành cũng chưa bao quát hết được tất cả các lĩnh vực NTBD. Quy chế về quản lý hoạt động người mẫu và biểu diễn thời trang, quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng thẩm định nghệ thuật vẫn chưa được ban hành.

Các VBQPPL còn nhiều điều cần sửa đổi, bổ sung. “Quy chế hoạt động và tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp” ban hành theo Quyết định 47 chưa đề cập các loại hình NTBD mới đang phát triển như: biểu diễn thời trang, video art kết hợp trình diễn, nghệ thuật sắp đặt, trình diễn nghệ thuật vẽ trên thân thể... Một số quy định trong Quy chế 47, Nghị định 61 về chế độ nhuận bút, Quyết định 180 về chế độ phụ cấp theo nghề và bồi dưỡng đối với lao động NTBD không còn phù hợp với thực tiễn. Việc sản xuất, lưu hành, kinh doanh băng đĩa ca nhạc, sân khấu đang chịu sự điều chỉnh của cùng lúc hai văn bản: Nghị định số 103 và Quyết định số 55 đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh băng đĩa.

PV: Về việc thực hiện chính sách khi đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị có điều gì cần bàn hay không?

NMT: Cả nước hiện có 116 đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp, hơn 200 đoàn nghệ thuật xã hội hóa, hơn 41.000 đội văn nghệ cấp xã, phường, hàng trăm đội thông tin tuyên truyền và hơn 150 câu lạc bộ nghệ thuật tư nhân nhưng mới chỉ có gần 130 điểm biểu diễn có mái che. Nhà hát, rạp hát ở các thành phố lớn chủ yếu có từ thời Pháp. Nhiều tỉnh chưa có nhà hát, hoạt động biểu diễn được thực hiện tại các nhà văn hóa. Tại không ít tỉnh, thành phố, thiết chế văn hóa ở các vị trí đắc địa, trong đó có nhà hát, còn bị bán đi hoặc bị chuyển đổi mục đích sử dụng. Một số rạp hát, trung tâm văn hóa ở xa trung tâm dân cư, trong khi những địa điểm đẹp thường được dành để xây dựng nhà hàng, khách sạn.

Hệ thống nhà hát, rạp hát hầu như không đáp ứng được những yêu cầu về công năng biểu diễn chuyên nghiệp. Phần lớn các cơ sở này chật hẹp và xuống cấp. Các nhà văn hóa, trung tâm văn hóa phần lớn được xây dựng với chức năng hội trường, vì vậy sân khấu, âm thanh, ánh sáng... kém.

Không ít nơi chưa có sàn tập và sân khấu. Một số địa phương đã quan tâm đầu tư cho các đoàn nghệ thuật, ví dụ: Nhà hát nhạc vũ kịch Tp. Hồ Chí Minh được đầu tư dàn nhạc cụ trị giá 43 tỷ đồng; Đoàn ca múa nhạc Đam San được mua một xe sân khấu lưu động trị giá 2,2 tỷ đồng... Nhưng nhìn chung việc đầu tư cho lĩnh vực này còn rất hạn chế.

Một số nhà hát, cơ sở biểu diễn tuy được sửa chữa, nâng cấp nhưng chất lượng không đáp ứng yêu cầu, hiệu quả sử dụng không cao do không có chỗ lắp đặt, thiết bị máy móc chắp vá, không đồng bộ, kỹ thuật viên sử dụng thiết bị không được đào tạo đúng chuyên ngành. Không ít trường hợp đầu tư mua trang thiết bị đắt tiền nhưng không có chỗ để. Trang thiết bị thường vừa sử dụng tại nhà hát, vừa đem đi phục vụ biểu diễn lưu động cho nên chóng xuống cấp.

PV: Chúng tôi được biết chế độ lương, phụ cấp nghề, bồi dưỡng luyện tập có một số điểm chưa phù hợp với thực tế. Hẳn qua đợt giám sát, GS và đoàn công tác biết rõ hơn về vấn đề này?

NMT: Thang lương của người hoạt động NTBD gồm ba hạng với 26 bậc. Thang lương quá nhiều bậc như vậy không phù hợp với đặc thù của hoạt động nghệ thuật là thời gian đào tạo dài, tuổi nghề ngắn. Một điều cần xem lại nữa là những người mới ra trường, không phân biệt trình độ trung cấp, cao đẳng hay đại học đều được xếp lương khởi điểm 2,06, thấp hơn mức lương khởi điểm trong bảng lương viên chức (đại học 2,34).

Việc nâng ngạch từ hạng III lên hạng II phải qua kỳ thi nâng ngạch. Nhưng nhiều năm qua không tổ chức thi nâng ngạch cho ngành NTBD. Hầu hết đạo diễn, biên kịch, diễn viên có thời gian cống hiến dài, đạt nhiều thành tích trong các kỳ hội diễn quốc gia, quốc tế, được phong các danh hiệu cao quý nhất của nghề nghiệp mà vẫn ở ngạch diễn viên hạng III và không có triển vọng được nâng ngạch.

Mức phụ cấp nghề nghiệp đối với nghệ sĩ là 15% lương cơ bản: bồi dưỡng luyện tập từ 10.000đ - 20.000đ/buổi và bồi dưỡng biểu diễn từ 20.000đ - 50.000đ/buổi. Chế độ phụ cấp nghề, bồi dưỡng như vậy không phù hợp với đặc thù của ngành là phải thường xuyên tập luyện nặng nhọc, nhiều khi đối mặt với nguy hiểm, phải tiếp xúc với ánh sáng cực mạnh của bóng đèn sân khấu, di chuyển và hoạt động vào những lúc nghỉ ngơi của mọi người.

Một số quy định về thời gian hoạt động nghệ thuật và số huy chương vàng để được phong tặng danh hiệu chưa phù hợp với thực tế: Thời gian hành nghề của nghệ sĩ một số ngành như múa, xiếc thường rất ngắn, nếu chờ 15, 20 năm mới được xét duyệt thì thời gian cống hiến không còn. Việc đoạt huy chương vàng cũng không đơn giản vì hội diễn toàn quốc chỉ tổ chức 5 năm một lần, huy chương vàng thường chỉ dành cho các vai chính; hơn nữa, có một số lĩnh vực không thể có huy chương vì không có cuộc thi dành cho chuyên ngành của họ như nhạc công.

Tiền thưởng đối với người được phong NSND, NSƯT bằng 12,5 lần và 9,0 lần mức lương tối thiểu. Quy định này là tích cực. Tuy nhiên, nhiều nghệ sĩ mong muốn Nhà nước gắn việc phong tặng danh hiệu với chính sách nâng lương, nâng ngạch.

PV: Từ kết quả giám sát, GS cho biết ủy ban có kiến nghị gì đối với Quốc hội và Chính phủ?

NMT: Ủy ban kiến nghị Quốc hội: Từ năm đầu của kế hoạch 5 năm (2011-2015), tăng mức đầu tư cho văn hóa lên 3% ngân sách, tương đương mức đầu tư cho khoa học - công nghệ. Phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia tăng cường cơ sở vật chất cho NTBD. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các văn bản qui phạm pháp luật có tính pháp lý cao. Đến năm 2014 ban hành Pháp lệnh về NTBD, năm 2020 ban hành Luật NTBD. Sửa đổi điều 6 Bộ luật lao động và điều 51 Luật Bảo hiểm xã hội.

Ủy ban kiến nghị Chính phủ: Sớm ban hành Nghị định về NTBD. Tiếp tục xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển ngành NTBD; sắp xếp lại các đoàn nghệ thuật công lập và các trường VHNT cả nước; có chính sách cụ thể hỗ trợ các đoàn nghệ thuật truyền thống.

Chỉ đạo nghiên cứu để cụ thể hóa chính sách xã hội hóa và đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động NTBD; ban hành chính sách thuế và đất đai phù hợp để khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư cơ sở vật chất và tham gia hoạt động NTBD. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, nâng cấp trang thiết bị cho ngành NTBD; nghiêm cấm bán, chuyển đổi mục đích sử dụng đối với các thiết chế văn hóa. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách, chế độ. Cụ thể là: - Sửa đổi, bổ sung chế độ tiền lương, phụ cấp, thù lao, nhuận bút; hướng dẫn tổ chức thi nâng ngạch cho diễn viên. Sửa đổi tiêu chuẩn phong tặng danh hiệu NSND, NSƯT; có chính sách ưu đãi về tiền lương đối với những nghệ sĩ được phong tặng các danh hiệu vinh dự hoặc đoạt giải cao trong các liên hoan nghệ thuật. Sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản chỉ đạo liên quan đến bản quyền cho phù hợp với Luật Sở hữu trí tuệ. Có cơ chế tuyển sinh phù hợp với đặc thù của các trường VHNT; tăng kinh phí đào tạo hợp lý; miễn học phí cho người học các bộ môn nghệ thuật truyền thống; đưa đi đào tạo nước ngoài một số ngành nghệ thuật. Hoàn thiện quy định về trách nhiệm, quyền hạn, quan hệ công tác cũng như cơ chế phối hợp trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa; kiện toàn tổ chức, tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý kịp thời, nghiêm minh các sai phạm.

PV: Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư về cuộc trò chuyện bổ ích này.

XUÂN HƯƠNG thực hiện
(262/12-10)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN THANH TÚ"...Phim Dòng Sông Phẳng Lặng (DSPL) không chỉ là tác phẩm nghệ thuật mang tính sử thi ngợi ca chủ nghĩa anh hùng Cách mạng của quân và dân Thừa Thiên Huế (TTH) trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mà tập trung hoàn thành bộ phim này nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày TTH và miền Nam hoàn toàn giải phóng, việc làm đó còn là nghĩa cử của người đang sống đối với những liệt sĩ đã anh dũng hy sinh vì hòa bình độc lập dân tộc ở mảnh đất này". Đó là phát biểu của đồng chí Hồ Xuân Mãn - Ủy viên Trung ương Đảng - Bí thư Tỉnh ủy tỉnh TTH tại cuộc họp bàn công tác sản xuất phim DSPL mà nhà văn Tô Nhuận Vỹ đã kể cho tôi nghe.

  • VI THUỲ LINHHollywood, kinh đô điện ảnh (ĐA) thế giới, là mơ ước, đích đến của nhiều nước. Việt Nam, được xếp hạng thuộc “thế giới thứ ba” cả về kinh tế và vị thế điện ảnh, vừa có mặt ở đây, một đoàn 13 nhà ĐA, hào hứng và quyết tâm để học. Vậy ở kinh đô ấy, họ đã nhận thấy điều gì?

  • VĨNH NGUYÊN...Ngọc Tranh sinh năm 1932 ở làng Thọ Linh, Quảng Sơn, Quảng Trạch, Quảng Bình. Cha mất sớm, ở với mẹ và bà nội. Tuy là con cưng nhưng sau những buổi đi học về là cắt cỏ, chăn trâu giúp đỡ gia đình, bởi vùng đất chỉ hai mùa khoai - lúa, mất mùa, bà con sống bằng nghề mây tre, lá nón trên rừng...

  • VŨ HÀSuốt mười ngày đêm (từ 3.5 đến 13 tháng 5 năm 2003) trên sân khấu Nhà hát Trưng Vương thành phố Đà Nẵng, hơn 500 nghệ sĩ, diễn viên của 12 đơn vị nghệ thuật từ Thanh Hoá tới Khánh Hoà đến tham gia Liên hoan khu vực đã ra mắt 12 vở diễn phong phú các sắc màu, giọng điệu tươi mới nồng nàn, làm nên gương mặt sân khấu của những năm tháng này...

  • ĐẶNG NHẬT MINH                (Trích hồi ký)...Bộ phim là sự thể hiện của tài năng chân chính và sự giàu có nội tâm... Chúng tôi đã chứng kiến hàng loạt những nhận xét cảm động về bộ phim kể cả từ phía khán giả đại chúng. Bộ phim đã giành được uy tín rất cao trong lòng hàng loạt khán giả, kể cả chuyên gia điện ảnh và truyền hình lẫn các giới chức ngoại giao và những người khác...

  • ĐẶNG NHẬT MINH                    (Trích hồi ký)Sau khi đi thực tập về điện ảnh một thời gian ngắn ở Paris về, tôi bắt đầu viết kịch bản Cô gái trên sông mà tôi đã có ý định từ trước như một món nợ tinh thần đối với xứ Huế, quê hương tôi. Cô gái trong kịch bản chính là cô gái trong bài thơ của nhà thơ Tố Hữu: Tiếng hát sông Hương. Cô gái đó tượng trưng cho nhân dân khổ đau hy vọng vào một ngày mai tươi sáng, hết lòng che chở cho cách mạng. Nhưng khi thành công rồi thì một số người đã quay lưng lại với họ.

  • LTS: Kỷ niệm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Doanh nghiệp Quốc gia Chiếu bóng và Chụp ảnh Việt Nam (15/3/1953) khai sinh cho nền điện ảnh dân tộc, SÔNG HƯƠNG xin giới thiệu với bạn đọc ba chương (chương III, IV, X) trong cuốn Hồi ký Điện ảnh của đạo diễn Đặng Nhật Minh. Qua những dòng hồi ký này bạn đọc sẽ biết được trong hoàn cảnh nào Đặng Nhật Minh đã trở thành đạo diễn điện ảnh, những bước đi đầu tiên của anh trong lĩnh vực này... và như anh đã viết trong lời nói đầu của cuốn hồi ký: ..."nếu gạt bỏ đi những cái chủ quan của người viết (mà chắc là không tránh khỏi) vẫn còn lại cái gì đó hữu ích đối với những ai muốn tìm hiểu đôi chút về một thời làm phim ở nước ta".                                                                SH

  • NGUYỄN TUYẾN TRUNGNhững năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước tôi có dịp ra thăm hậu phương lớn miền Bắc cùng đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc giải phóng khu Trị Thiên. Tôi gặp kịch tác gia Hồ Ngọc Ánh trong hội nghị tập huấn về sân khấu tại 51 Trần Hưng Đạo do đạo diễn Đình Quang hướng dẫn.

  • NGÔ MINHTôi đã xem một số bộ phim của anh và đã gặp anh mấy lần ở nhà anh Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tôi thấy lúc nào anh cũng nói chuyện từ tốn, rỉ rả kiểu Huế. Trên Tạp chí Sông Hương tôi cũng đã đọc mấy đoạn hồi ký của anh viết về sự lận đận xung quanh những bộ phim. Mới đây nhà văn Trần Thùy Mai lặng lẽ đưa cho tôi cuốn “Hồi ký điện ảnh”(*) của Đặng Nhật Minh, bảo: “Đọc đi, được lắm”. Thế là tôi đọc một mạch... Những trang hồi ký đã giúp tôi hình dung 30 năm làm phim vất vả của một nghệ sĩ tài năng. Hồi ký... do đạo diễn Mai Lộc viết “Lời giới thiệu” và nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường viết lời bạt: “Đặng Nhật Minh- Người kể sự tích dân tộc mình bằng điện ảnh”.

  • LÂM TÔ LỘCCách mạng tháng Tám tạo bước ngoặt lịch sử cho nghệ thuật múa Việt vốn có truyền thống từ lâu đời. Di sản múa các dân tộc ở ba miền Bắc Trung Nam với ba hình thái (múa dân gian, múa tôn giáo, múa cung đình) đã từng bước được phục hồi và phát triển, kể cả dòng nghệ thuật múa mới ở các vùng đô thị lớn. Thời kháng chiến chống Pháp hầu hết những người hoạt động múa trước cách mạng tháng Tám đều tham gia kháng chiến.

  • HỒ NGỌCTrong đời sống, nhiều khi vì quá quen thuộc với một sự kiện, một hiện tượng nào đó, ta thường ít để ý đến nó, hơn thế nữa càng không có yêu cầu nhìn lại để xem nó có những điểm nào không còn thích hợp, cần có sự thay đổi... Sân khấu chúng ta hiện cũng có tình trạng tương tự.

  • NGÔ HÙNG SƠN(Kịch vui)NHÂN VẬT- Giám đốc- Bích Hường: Người tình của Giám đốc- Người đàn bà: Vợ phó giám đốcChuyện xảy ra tại Văn phòng Giám đốc

  • NGUYỄN NGHĨA NGUYÊNChúng tôi xem qua vô tuyến truyền hình nên nhìn đi mà không được nhìn lại, ấy thế mà tiết mục đã để lại ở chúng tôi một ấn tượng sâu sắc.Các nghệ nhân như những nàng tiên hai bàn tay cặp hoa đăng uốn lượn vẽ ra một dải Ngân Hà trong một ánh sáng và tiếng nhạc cung kính, trang nghiệm gợi ra một cảm giác xa xưa của một thời vang bóng.

  • ĐẶNG NHẬT MINHTháng 2 vừa qua, trong sinh hoạt điện ảnh Trung Quốc đã diễn ra một sự kiện đặc biệt thu hút sự chú ý của mọi người: cuộc gặp mặt của sinh viên khoá 82 Trường Đại học Điện ảnh Bắc Kinh.

  • VĂN CẦM HẢI thực hiệnLTS: Nhà phê bình điện ảnh Trung Quốc Lý Thụy Anh đã đánh giá rất cao đạo diễn Đặng Nhật Minh qua bài viết "40 năm phim truyện Việt ". Nhiều giải thưởng lớn trong nước và quốc tế từ thập kỷ 70 đến nay (gần đây nhất là giải Bông sen vàng liên hoan phim truyện Việt lần thứ XIII) cũng đủ minh chứng cho điều đó. "Nó không chỉ đem lại danh tiếng cho ĐAVN mà quan trọng hơn là giúp cho công chúng quốc tế biết đến ĐAVN". Sông hương xin trân trọng giới thiệu trích đoạn cuộc trò chuyện giữa đạo diễn Đặng Nhật Minh và nhà văn Văn Cầm Hải nhân dịp ông về thăm nhà vào những ngày sắp bước sang xuân mới.

  • Nếu ta không làm được như sân khấu kinh kịch Trung Quốc thì cũng học tập chút ít kinh nghiệm của bạn xây dựng cho mình