Hẹn gặp lại!

14:30 01/08/2016

NGỌC BÁI

(Đọc tiểu thuyết “À BIENTÔT…” của Hiệu Constant)

Ảnh: internet

Cuộc đối thoại khá đặc biệt giữa cựu Đại sứ người Pháp, Jean-Claude Lacour với Hoài Thu, phóng viên Việt Nam tại Hội thảo Quốc tế tại Paris, đã chứng tỏ sự bình đẳng về nhân cách, bình đẳng về địa vị xã hội, bình đẳng về tuổi tác và bình đẳng dân tộc giữa các quốc gia. Cuộc Hội thảo có chủ đề “Mối quan hệ Việt Nam - Pháp và châu Âu kể từ 1954”, đã tạo cơ hội cho nhân vật vốn dĩ xa cách về địa lý, về văn hóa, với sự cảm thông, chia sẻ sau những biến cố của cuộc sống. Từ những chuyện chung tới những chuyện riêng tư đã khiến nhân vật Jean-Claude và Hoài Thu có mối đồng cảm sâu đậm, tinh tế. Mối đồng cảm càng trở nên sâu sắc mỗi khi hai người gặp gỡ nhau! Phải chăng đó là tình yêu không biên giới? Tình yêu vượt qua tuổi tác? Tình yêu phi đẳng cấp? Đấy cũng là điều tác giả Hiệu Constant gửi gắm.

Mối liên hệ tự nhiên giữa Hoài Thu và Jean-Claude vừa cảm tính, vừa lí tính. Đó là sự linh cảm hiếm có. Họ gặp nhau trong hội thảo, nhưng cũng đã từng gặp nhau thoáng qua từ trước đó ở Hà Nội. Khi ấy Jean-Claude đã là Đại sứ ở Việt Nam, còn Hoài Thu mới chỉ là cô bé vừa qua trận lụt khủng khiếp, theo dân làng đến nhận cứu trợ. Món quà nhỏ và dòng chữ À BIENTÔT… đã ghi dấu ấn mạnh mẽ trong tâm trí cô bé gái. Hẹn gặp lại! có phải là tiếng nói của định mệnh? Chính cái ngày đáng nhớ đó, lại là ngày sinh nhật của Hoài Thu.

Hoài Thu lớn lên, gắng gỏi học hành và nuôi hi vọng. Chính câu nói của Jean-Claude “Sois sage, travaille bien à l’école et à bientôt! ” đã thành động lực để Hoài Thu phấn đấu không ngừng. Sau này Hoài Thu tốt nghiệp đại học và trở thành phóng viên của một tờ báo trong nước. Ý chí và nghị lực đã là chiếc cầu nối để Hoài Thu bước tới những chân trời. Còn Jean-Claude sau khi hết nhiệm kỳ đại sứ ở Việt Nam, đã đi làm Đại sứ ở nhiều quốc gia khác nhau, nhưng hình ảnh Việt Nam vẫn khắc sâu vào tâm khảm anh. Ở đó hấp dẫn bởi cảnh sắc thiên nhiên Việt Nam đẹp hay bởi tâm hồn cao cả của người dân đất Việt, đã từng chiến thắng những thử thách nghiệt ngã của thời quá khứ?

Theo tâm sự của Jean-Claude, Hoài Thu càng thấu hiểu cuộc sống và sự thăng tiến của chàng trai Pháp không dễ dàng chút nào. Jean-Claude đã có tuổi thơ khá buồn vì cha mẹ không hòa hợp. Cuộc sống xô đẩy, buộc Jean-Claude phải vượt lên, làm chủ vận mệnh của mình. Còn Hoài Thu, số phận đẩy vào hoàn cảnh vô cùng bi thương. Từng là đứa con bị bỏ rơi. Cha mẹ không còn, nhưng bù lại Hoài Thu có cha mẹ nuôi tuy nghèo nhưng vô cùng nhân ái. Số mệnh đã cướp đi những người thân yêu ruột thịt, nhưng tình cảm sâu xa họ để lại là vô giá. Đấy là tất cả những gì Hoài Thu được bù đắp, như một thứ tài sản đặc biệt trên suốt chặng đường đời Hoài Thu trải qua.

Cuộc sống gian nan đã cắt nghĩa sự phấn đấu vươn tới thành đạt của mỗi người. Jean-Claude ngày càng chững chạc trong vai trò ngoại giao, có mặt ở nhiều quốc gia có các phong tục tập quán khác nhau, thì Hoài Thu là phóng viên báo chí vững vàng, đã từng có mặt ở nhiều nơi nóng bỏng các sự kiện thời sự, với những bài báo kịp thời với nội dung sắc sảo và chuẩn xác.

Qua câu chuyện tự sự của Jean-Claude và Hoài Thu, người đọc rõ thêm được hoàn cảnh của mỗi người. “Đôi lúc anh cũng nhớ quay quắt, nhưng quê anh giờ chả còn ai. Chỉ còn nghĩa địa, nơi có những nấm mộ đang yên nghỉ... Đến đó chỉ khuấy động lại những kỷ niệm buồn...”. Đó chính là nỗi niềm sâu kín của Jean-Claude. Đối với Hoài Thu, xuất thân từ làng quê: “Gia cảnh điêu đứng. Bố nó là thợ hồ, đi đây đó làm việc suốt năm để lấy tiền đóng học cho anh em nó. Mẹ làm ruộng. Ngoài số ruộng được chia, mẹ còn nhận thêm một số suất đất của những người trong làng đã đi làm ăn ở Hà Nội...”. Trích dẫn những trang viết này để thấy rằng Jean-Claude và Hoài Thu đều từ lớp người bần cùng, dù dưới những góc độ khác nhau, bươn chải lo toan, từ đấy đã khẳng định được cuộc sống, tuy có vị trí xã hội nhất định, nhưng luôn bình dị, dễ cảm mến, dễ gặp nhau...

Sống chung một gia đình nhưng mỗi người mỗi khác, Tuyển là anh cả nhưng đua đòi bê tha sa vòng lao lí; chị Hiên thì hiền lành chân chỉ, có cuộc sống vợ chồng đề huề an phận. Kỷ niệm về những người Hoài Thu từng biết, đã khắc sâu vào trí nhớ: thầy Thường yêu cô An, nhưng khi đi chiến trường B, cô An ở nhà lấy thầy Chiến đi học nước ngoài. Khi chiến đấu trở về thầy Thường rất buồn... Chuyện Minh, bạn học cũ của Hoài Thu, từng đi bộ đội, có vợ có con trai, sau ra quân vì bần cùng phải đi đào vàng, sa vào cạm bẫy của cờ bạc nghiên hút, nhiễm HIV. Vợ bỏ ra thành phố đi với người khác. Hay cái thời cải cách ruộng đất, bố mẹ chồng bà Lãng bị đấu tố tàn độc. Sự vô vọng của bà Lãng, chờ đợi ông Kiên đi biền biệt và đã hi sinh ở chiến trường...

Chính sự đi nhiều, hiểu biết nhiều những cảnh đời khác nhau, đã tạo cho Jean-Claude và Hoài Thu đồng cảm với những con người có các hoàn cảnh riêng. Dọc chặng đường sống và công tác nay đây mai đó, Jean- Claude cũng không thể quên thời ấu thơ ở trường Dòng. Rồi khi đã thành nhà ngoại giao, đã từng đến nhiều quốc gia, với những người bạn, những người cộng sự và cả những người tình, điều đó là lẽ thường. Nhưng cuộc gặp gỡ Hoài Thu đã để lại trong tâm trí Anh sự quý trọng và cảm mến ngay từ những phút giây đầu. Người cộng sự, Paul cố vấn văn hóa, với Jean-Claude như thể bạn cố tri. Đã để lại dấu ấn tình cảm không phai mờ. Những bạn gái: Caroline, Hélènne, Jasdia, Genevière hơn một lần đã làm tổ trong tình cảm của Jean-Claude. “Sau mỗi cuộc đổ vỡ, sau mỗi lần chia tay, anh thường tự an ủi: “Vạn vật có phân ly, ắt có thành tựu”. Đấy chính là tâm sự của Jean-Claude. Đấy còn là sự thử thách và chọn lựa của người từng trải.

Cuộc đối thoại của Hoài Thu và Jean-Claude đi suốt chiều dài tiểu thuyết. Ở đó, thời quá khứ và hiện tại đồng hiện. Với bao cảnh tình, bao đổi thay, với công việc của nhà ngoại giao, công việc của phóng viên báo chí. Và, cuối cùng là câu nói bật ra từ trái tim Jean-Claude: “Anh hẳn có thể làm bất kỳ điều gì lúc này miễn được ở bên cô gái Việt Nam yêu kiều và quyến rũ này”!

Chỉ có niềm tin yêu mới đủ sức đi tới cuối con đường. Đó là quyết định. Đó là tất cả cầu mong, là hứa hẹn của Jean-Claude với Hoài Thu: À BIENTÔT! Hẹn gặp lại! Có phải Hoài Thu cũng chờ đợi điều ấy?

N.B  
(TCSH329/07-2016)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH