Ngày 5-9-1969, nghĩa là chỉ hai ngày sau khi Bác Hồ của chúng ta qua đời, nhà thơ lớn của Cu Ba và Mỹ La-tinh là Nicolas Guillen đã xúc động làm bài thơ “Hồ Chí Minh”. Bài thơ này đã được đăng trang trọng ngay trên trang bìa tạp chí của các lực lượng vũ trang cách mạng Cu-ba Màu xanh ô liu, trong tập phụ trương đặc biệt tỏ lòng thương tiếc vô hạn của quân đội và nhân dân Cu-Ba anh em đối với Bác Hồ.
Điều cần nói thêm là bài thơ này được in chữ đậm ngay cạnh tấm ảnh quen thuộc đối với mỗi chúng ta: Bác Hồ bận đồ ka-ki đã bạc trắng đi thăm trận địa. Người đọc có thể hiểu ngay mối quan hệ hữu cơ giữa bài thơ sâu lắng của Nicolas Guillen và tấm ảnh giàu ý nghĩa ấy. Toàn văn bài thơ như sau: Hồ Chí Minh Một chuyến đi dài kết thúc xong Hồ Chí Minh thanh thản, hỡi lòng: Trên màu trắng áo quần Người đó Một trái tim rộng mở, rực hồng. Chẳng mang cận vệ, chẳng người hầu Vượt qua sa mạc, núi rừng sâu: Trong màu trắng áo quần Người ấy Ngoài tim rộng mở, có gì đâu! Người chẳng cần hơn cho một chuyến đi dài. Ngay sau khi tờ Màu xanh ô liu băng qua Đại Tây dương, tới thủ đô Madrid, nhà thơ và nhà soạn kịch lớn của Tây Ban Nha là Alfonso Sastre liền bắt tay vào họa bài thơ của nhà thơ Cu Ba lỗi lạc.
Khác với lối họa thơ Đường, nhà thơ Tây Ban Nha đã họa lần lượt nguyên cả các câu trong bài thơ của Nicolas Guillen. Và đặc biệt, tác giả bài thơ hoạ đã bám sát chủ đề bài thơ của nhà thơ Cu Ba: Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và bình dị không hề từ giã cõi đời, mà chỉ thanh thảnh kết thúc xong “một chuyến đi dài”. Dưới đây là toàn văn bài thơ họa của Alfonso Sastre: Hồ Chí Minh Suốt đêm thâu cũng như ngày nhọc mệt Hành trang của Người vẫn nhẹ như không Sức sống của Người mạnh hơn cái chết Một chuyến đi dài kết thúc xong. Hành trang của Người quả là thật nhẹ Người sống trăm lần, chết nhẹ tựa bông Đường Người đi đẹp tươi như tranh vẽ Hồ Chí Minh thanh thản, hỡi lòng Trái tim Người luôn nồng cháy, dịu dàng Người đi đó, với hành trang nhẹ nhỏ Như chỉ mang theo một đóa hoa vàng Trên màu trắng áo quần Người đó Cảnh đẹp quanh Người bỗng tươi màu đỏ Như một vườn hoa tỏa sáng xanh trong Còn Hồ Chí Minh sau chuyến đi đó Một trái tim rộng mở rực hồng Chuyến đi dài với biết bao gian khổ Chẳng mang cận vệ, chẳng người hầu Tới thế giới đã bao người biết rõ Vượt qua sa mạc, núi rừng sâu Vượt qua sa mạc, núi rừng sâu Dưới bộ áo quần đơn sơ, ta thấy: Một trái tim hồng chẳng có chết đâu Trong màu trắng, áo quần Người ấy Hành trang của Người nhẹ như vậy đó Chẳng chết bao giờ, Người sống dài lâu Trong bộ áo quần đơn sơ gắn bó Ngoài tim rộng mở, có gì đâu! Người chẳng cần hơn cho một chuyến đi dài. MINH ĐĂNG KHÁNH Giới thiệu và dịch (từ nguyên bản tiếng Tây Ban Nha) (14/8-85) |
JEZIBELl - RM.SHANMUGAM CHETTIAR
L.T.S: Cùng với Blok, Mai-a-cốp-xki, Ê-xê-nhin, Pa-xter-nak... Ma-ri-na Xvê-ta-ê-va (Marina Tsvetaeva 1892 - 1941) là một trong những nhà thơ Nga - Xô Viết lớn nhất của thế kỷ XX. Đường đời của bà là con đường đầy gian truân của một trí thức phải khắc phục nhiều lầm lỗi để đến với chân lý cách mạng. Một trái tim nồng cháy tình yêu Tổ quốc, dân tộc, nhưng Xvê-ta-ê-va mất gần 20 năm sau Cách mạng Tháng Mười sống lưu vong ở nước ngoài và trở về đất nước không được bao lâu thì mất.
OCTAVIO PAZ
(Nobel Văn Chương 1990)
Eduardas Megielaitis sinh năm 1919 (đã mất 6/6/1997), Chủ tịch Hội Nhà văn Litva (Liên Xô cũ) từ năm 1959, có tác phẩm được in từ 1934. Anh hùng lao động Liên Xô, Giải thưởng Lê-nin về văn học (năm 1961).
Lép Ôsanhi - Vlađimia Xôkôlôp
LGT: Charles Simic sinh năm 1938 tại Belgrade, Nam Tư. Năm 16 tuổi ông cùng với mẹ sang Mỹ sống với người cha ở New York City. Hiện ông là giáo sư khoa tiếng Anh ở trường Đại học New Hamsphire. Thơ Simic không dễ xếp loại. Một số bài thơ của ông có khuynh hướng siêu thực, siêu hình trong khi các bài khác là những chân dung hiện thực của bạo lực và tuyệt vọng.
Sam Hamill - Kevin Bowen - Martha Collins - Yusef Komunyakaa - Fred Marchant - Lady Borton - Nguyễn Bá Chung - Bruc Weil - Carolyn Forché - Larry Heinemann - George Evans
F.G. Lorca: Nhà thơ Tây Ban Nha, một trong những nhà thơ lớn của thế kỷ, một chiến sĩ chống phát xít đã bị kẻ thù ám hại năm 1938, khi ông vừa tròn 40 tuổi.
Bạn đọc chắc hãy còn nhớ vào tháng 2 năm 2011, Tạp chí Sông Hương đón nhận sự ghé thăm của đoàn Nhà văn Nga, trong đó có nhà thơ Terekhin Vadim.
FREDERICK TURNER
FREDERICK FEIRSTEIN
Jean Amrouche (1906-1962), người An-giê-ri, dạy học ở Tuy-ni-di, viết báo. Có nhiều thi phẩm in ra trước 1940. Chết trước khi An-giê-ri dành được độc lập, trong khi ông vẫn là một trong những người thành tâm và quyết liệt tìm giải pháp cho vấn đề thiết cốt này.
Trong một lần thăm Ang-co, tôi cùng đi với chị Khô Chan dra, một cựu sinh viên văn khoa Đại học Phnôm Pênh. Chị ở trong một gia đình trí thức công chức dưới thời Si-ha-nuc nên hầu hết những người thân đều bị Pôn Pốt sát hại.
L.T.S: Ma-xê-đoan (Nam Tư) là xứ sở thơ mộng của phong cảnh đẹp, của du lịch, hội hè và của thơ, là một cái nôi văn hoá cổ xưa của nhân loại, nằm trên bán đảo Ban-căng, có một cái gì gợi nên một số nét tương đồng với Huế.
L.T.S: “Mẹ và bom nơ-tơ-rôn” là trường ca của nhà thơ Liên Xô nổi tiếng E.Ép-tu-sen-cô. Trường ca được trao giải thưởng Nhà nước Liên Xô năm 1984. Xin trân trọng giới thiệu một đoạn trích từ trường ca.
Nhà thơ nữ Ana Blandiana (sinh năm 1942) hiện là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học hiện đại Ru-ma-ni.
Paul Henry là một trong những nhà thơ hàng đầu xứ Wales. Được cố thi sĩ Ursula Askham Fanthorpe diễn tả như “một nhà thơ của nhà thơ”, kết hợp “cảm xúc nhạc của những con chữ với sự tưởng tượng sáng tạo không ngừng nghỉ”, ông đến với thơ qua việc viết lời ca.
PI-MEN PAN-TREN-CƠNhững vật dụng của lính
LTS: Bruce Weigl nhà thơ Mỹ từng là cựu chiến binh tham chiến tại Quảng Trị những năm 1967-1968. Là người chứng kiến những sự thật kinh hoàng trong chiến tranh Việt Nam, ông tìm đến với thơ ca như một sự cứu rỗi linh hồn. Năm 1987, Bruce Weigl lần đầu tiên trở lại Việt Nam và “Tôi không bao giờ tưởng tượng được người Việt Nam lại tiếp đãi mình ân cần như thế”.
PABLO NERUDATrên đỉnh Machu Picchu(*)