TAKESHI NAKAGAWA
LTS: Takeshi Nakagawa là GS. TS. Giám đốc Viện Di sản Waseda (Nhật Bản). Bài viết dưới đây, được ông trình bày tại dịp Kỷ niệm 20 năm Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO tôn vinh là Di sản Văn hóa Thế giới. Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Lần đầu tiên tôi đến Huế vào tháng 7 năm 1991. Với tư cách là cố vấn của UNESCO, tôi có cơ hội được trao đổi làm việc với đội ngũ cán bộ của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế (HMCC) về việc phục hồi màu sắc của công trình Ngọ Môn, đồng thời tổ chức hội thảo trong vòng 1 tuần về bảo tồn di sản văn hóa nhằm chia sẻ thông tin về các xu hướng tại Nhật Bản và kinh nghiệm trên toàn thế giới trong lĩnh vực chuyên môn với những người làm công tác bảo tồn các tài sản văn hóa ở Việt Nam trong tương lai. Ấn tượng mà tôi đã nhận được từ chuyến làm việc này vẫn luôn tồn tại trong tâm trí tôi và tôi cảm thấy rằng điều này luôn được thực hiện như một động lực thúc đẩy các hoạt động của chúng tôi cho đến ngày hôm nay. Đây là câu chuyện về ấn tượng của tôi.
Ở Nhật, có câu nói, “Kuni yaburete sanga-ari, tsuwamonodomo no yume no ato,” có nghĩa là, “Đất nước này đang trong tình trạng đố nát, nhưng sông núi vẫn còn. Chúng là tất cả những gì còn sót lại của những giấc mơ chiến binh”.
Chiến tranh không bao giờ thất bại trong việc đem lại thảm họa nghiêm trọng đến cuộc sống và tài sản của người dân, chưa kế đến xã hội và môi trường. Như Việt Nam đã trải qua tình trạng hỗn loạn của chiến tranh được lặp đi lặp trong lịch sử hiện đại, kinh đô, cung điện và lăng tẩm của Huế với nhiều vết tích thiệt hại. Ví dụ, tất cả những gì còn lại của phần sân trung tâm của Tử Cấm Thành là nền đổ nát của một cung điện sụp đổ và sân cỏ dại mọc um tùm. Tuy nhiên, khi nhìn vào hiện trạng của các công trình di tích lịch sử của Huế bị hư hỏng trong chiến tranh, điều cơ bản mà tôi nghĩ đến là có thể trùng tu diện mạo ban đầu công trình gồm các họa tiết trang trí ở Ngọ Môn và Điện Thái Hòa nằm ở trục chính của Hoàng thành Huế. Hiển Lâm Các được xây dựng bằng cách sử dụng công nghệ tiên tiến nhất trong số tất cả công trình cung điện tại Huế, mặc dù có nhiều đổ nát và hư hỏng đáng kể ở một số cung điện. Quan điểm này cũng áp dụng cho các ngôi mộ hoàng gia. Bản năng đã mách bảo với tôi rằng bằng cách kiên trì kết nối các yếu tố cơ bản đang tồn tại ở mỗi công trình, điều này có thể tìm ra được dấu tích lịch sử của các công trình cung điện ở Huế với một mức độ chính xác nhất định. Không cần phải nói, tôi nhận ra điều đó rất rõ sau một thời gian dài tiến hành nghiên cứu so sánh một số lượng lớn các tư liệu bao gồm ảnh sử liệu đen trắng và các tư liệu viết được lưu giữ tại Pháp, lịch sử kiến trúc của các cung điện Trung Hoa, phong cách kiến trúc của miền Bắc Việt Nam và Hội An. Tuy nhiên, đó cũng là một sự thôi thúc mạnh mẽ khiến tôi cảm thấy trước mắt tôi hiện lại giấc mơ của các chiến binh cổ xưa khi lần đầu tiên tôi đã viếng thăm các di tích của triều Nguyễn tại Huế và buộc tôi phải quyết định thực hiện.
Khi tôi đến Huế lần đầu tiên cùng với người trợ lý, một cán bộ của cơ quan văn hóa đối ngoại đã mời tôi lưu trú tại nhà khách mà vị trí đó bây giờ đã xây dựng lại thành Khách sạn Heritage. Tôi nhớ là chúng tôi đã nói chuyện về tương lai của Huế khi ngồi ở phía tầng trên của nhà khách và nhìn vào ánh trăng tròn đang phản chiếu trên bề mặt sông Hương. Thời tiết nóng vào ban đêm khiến cho chúng tôi cảm thấy không được thoải mái, chúng tôi đã dạo quanh hai bên bờ của sông trong bóng tối, nhiều người Việt Nam đã mở lời chào chúng tôi rất thân thiện, bằng cách nào đó họ biết chúng tôi là người nước ngoài, mặc dù chúng tôi không thế nhìn thấy ai ngoài chúng tôi do bóng tối.
Hội thảo kéo dài một tuần đã thu hút sự tham gia của nhiều người trẻ đến từ Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và đến từ các thành phố khác trong cả nước, những người mong muốn tham gia vào việc bảo tồn di sản văn hóa, du lịch văn hóa và nghiên cứu văn hóa trong tương lai. Họ là những thành viên từ Trung tâm BTDT Cố đô Huế và là những con người nhiệt tình và thân thiện với đầy triển vọng cho tương lai. Trong thực tế, xã hội được bao trùm với bầu không khí lạc quan có lẽ do những tác động đầy hứa hẹn của chính sách Đổi Mới vừa mới bắt đầu và tôi đã cảm thấy tràn đầy sinh khí để giải quyết các vấn đề tiềm năng mạnh mẽ trong việc giải quyết các vấn đề di sản văn hóa giữa bầu khí quyển này. Tôi đã bị thuyết phục về tiềm năng này sau khi biết được rằng Chính phủ Việt Nam đã ấp ủ ước muốn xây dựng lại Điện Cần Chánh, tòa nhà trung tâm của Đại Nội. Việc đầu tiên Chính phủ thực hiện chỉ là thu nhận được kiến thức, công nghệ và thiết lập một khuôn khổ cho công tác bảo tồn tài sản văn hóa vào thời điểm này, nhưng tôi thật sự cảm nhận được sự quyết tâm của quốc gia này. Vào cùng thời điểm, tôi đã nghĩ rằng điều mong muốn là lập kế hoạch một dự án tái thiết với mục đích là trùng tu chính xác cung điện, vì đây không chỉ là tòa nhà chính của triều đại Nhà Nguyễn, mà còn là một tài sản văn hóa vô giá đầu tiên mặc dù nó đã hoàn toàn đánh mất nền móng của mình. Phần lớn, các bên liên quan có cùng ý kiến để cung cấp và chia sẻ kinh nghiệm và phát triển kỹ năng của các kỹ sư trong bảo tồn và trùng tu để thực hiện công tác tu bổ, đây chính là nhiệm vụ của tôi, một người có liên quan đến công tác nghiên cứu trùng tu các cung điện hoàng gia ở Huế.
Không có gì thay đổi kể từ chuyến thăm Huế đầu tiên của tôi vào tháng 7 năm 1991 với sứ mệnh chuẩn bị cho chuyến khảo sát gần đây vào tháng 8/2013. Một điều gì đó có thể được mô tả như là một bầu không khí không thay đổi của môi trường sinh ra từ sự hợp nhất của Cố đô Huế và cảnh quan xung quanh của núi và sông vượt qua sự không xác định của thời gian. Nó cũng có thể được mô tả như một cảm giác hài hòa giữa việc bố trí tỉ lệ nhỏ của nhóm tòa nhà và cảnh quan ngay cả khi áp dụng khuôn khổ của kiểu kiến trúc cung điện của thời Nhà Minh và Nhà Thanh của Trung Hoa, với một sự hài hòa nhất định trong tỉ lệ trang trí từng phần của mỗi tòa nhà.
Điều này thật khó để giải thích, nhưng có lẽ nó có liên quan đến việc làm thế nào đế cảm nhận được những dòng chảy nhẹ nhàng của sông Hương chảy qua những ngọn núi, nhánh sông và môi trường xung quanh thành phố cho đến ngày nay, không thể thay đổi được qua thời gian. Điều này đã làm cho tôi tin rằng di sản văn hóa Huế có thể được tồn tại và Cố đô Huế có thể được nhớ mãi như là một điểm quyến rũ bằng cách bảo vệ dòng chảy của sông Hương, và tiếp tục gìn giữ cảnh quan hai bên bờ sông Hương và toàn bộ cảnh quan từ nơi con sông có thể được xem là một phong cảnh của nỗi nhớ quê hương.
Kết quả của các hoạt động mà Viện Di sản - Waseda đã thực hiện với sự hướng dẫn, sự phối hợp và hợp tác của Bộ Văn hóa của Việt Nam, tỉnh Thừa Thiên Huế, thành phố Huế và Trung tâm BTDT Cố đô Huế, đây là các đối tác của chúng tôi, đã được trình bày trong các báo cáo mà chúng tôi đã cho xuất bản ngày nay. Cho phép tôi giới thiệu một số những thành tựu lớn.
Kể từ khi bắt đầu, tại Viện Di sản - Waseda chúng tôi đã nhắm đến thực hiện một dự án xây dựng lại, được hỗ trợ bởi các nghiên cứu phục hồi chính thức của Điện Cần Chánh, có hành động đáp ứng nhu cầu cho các đối tượng nghiên cứu, đào tạo kỹ thuật để đạt được mục tiêu, đôi khi vào những thời điểm có hệ thống nhưng đôi khi vào những thời điểm bắt buộc bởi sự cần thiết. Những hoạt động này đã tập trung vào các lĩnh vực của chính sách toàn diện, quy hoạch đô thị, bảo tồn và phục hồi, phương tiện truyền thông điện tử tổng hợp, và phát triển nguồn nhân lực. Chúng tôi đặc biệt đề cập đến từng khu vực sử dụng phương pháp đa dạng, bao gồm một cuộc khảo sát đo lường của các tòa nhà hiện có và phân tích các phương pháp thiết kế, khảo sát thực địa và nghiên cứu thành phố, hội thảo, thực hành hướng dẫn kỹ thuật trong khôi phục và xây dựng lại công trình, xác nhận kỹ thuật thông qua việc tạo ra mô hình, kho lưu trữ kỹ thuật số của các tài liệu khảo sát.
Trong cuộc khảo sát đo lường của các tòa nhà hiện có và phân tích các phương pháp thiết kế, chúng tôi tạo ra các bản vẽ đo lường (kế hoạch sắp xếp, xem xét bản đồ) của tất cả các ngôi mộ và cơ sở vật chất của vua có liên quan đến cung điện của vua bên trong kinh thành (bao gồm cả các công trình có nền tảng và cơ sở là các bộ phận chỉ còn một phần). Phân tích thiết kế xem kế hoạch dựa trên những bản vẽ, khảo sát đo lường thực hiện của độ cao và góc nhìn từng phần của các tòa nhà có thể so sánh, và phân tích. So sánh độ cao của nó và bản đồ thiết kế mặt cắt. Chúng tôi cũng thực hiện điều tra khai quật một phần của nền Điện Cần Chánh, nghiên cứu về sự chuyển đổi của các lĩnh vực liên quan đến nghệ thuật trang trí điêu khắc, màu sắc dự kiến, nội thất và đồ đạc chủ yếu của cung điện và lăng mộ của nhà vua. Một cuộc điều tra của tòa nhà liền kề bên trong Đại Nội, dinh thự của các quan lớn trong vùng lân cận, và các dinh thự trong thời kỳ thuộc địa Pháp. Những cuộc khảo sát toàn diện này đã được thực hiện bằng cách phân tích các số đo bản vẽ dựa trên đo đạc thực tế của các công trình, phân loại và xem xét quá trình chuyển đổi quan điểm kế hoạch, độ cao và mặt cắt, điều tra và đặc điếm lịch sử của nó. Khi cần thiết, chúng tôi cũng đọc qua các tài liệu văn học (điển hình là văn học Trung Quốc) để có được một hình ảnh tổng thể về đặc điểm lịch sử mà ta không thể thấy rõ từ những tàn tích của công trình, cũng như khảo sát thực địa để tiến hành so sánh. Đặc biệt, chúng tôi tiên hành khảo sát so sánh chủ yếu với Nhật và các nước lân cận khác, và khảo sát ở các vị trí khác nhau dựa trên suy nghĩ rằng có một ý nghĩa dẫn đến sự khác biệt trong việc phổ biến các kỹ thuật kiến trúc và phong cách giữa miền Bắc Việt Nam và miền Trung, miền Nam của đất nước.
Kết hợp với việc phân tích các phương pháp thiết kế bố trí của Đại Nội và lăng mộ các nhà vua, chúng tôi đã hợp tác với Giáo sư Shigeru Satoh của Phòng thí nghiệm thiết kế đô thị tại Đại học Waseda để tiến hành nghiên cứu về các đặc tính của môi trường và thiết kế cảnh quan của lịch sử Cố đô Huế, và đã tổ chức nhiều hội thảo khác nhau như một phần của dự án.
Trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, chúng tôi đã hướng đến các nỗ lực của chúng tôi đê có thêm các kỹ sư tại HMCC đặc biệt liên quan đến kỹ thuật kiến trúc truyền thống của Huế và các kỹ thuật nghề mộc, cùng với sự hợp tác của các tổ chức liên quan đến Nhật Bản ngay từ đầu. Gần đây, chúng tôi đã phối hợp với các phòng thí nghiệm của giáo sư Hiroyasu Shirai tại Viện kỹ thuật viên trên nhiều khía cạnh liên quan đến nghiên cứu và tìm thêm kỹ sư trong lĩnh vực này. Cho đến nay chúng tôi đã mở rộng tầm nhìn của mình bao gồm các công nghệ đo lường và khoa học bảo tồn, và đã bắt đầu thực hiện chương trình đào tạo theo từng bước nhỏ.
Trong năm 2011, chúng tôi biên soạn các kết quả của các cuộc điều tra và nghiên cứu trên của dự án nghiên cứu phục hồi Điện Cần Chánh, tạo ra các bản vẽ chi tiết theo tỷ lệ 1/10, và trong quá trình sản xuất một mô hình tỷ lệ 1/10. Trên thực tế chúng tôi đã hoàn thành việc kiểm tra cơ bản các vấn đề kỹ thuật trong việc xây dựng lại cung điện. Hơn nữa, chúng tôi có được rất nhiều kết quả nghiên cứu mà chúng tôi có được cho đến nay vào ứng dụng GIS dưới dạng kỹ thuật số.
Các hoạt động kéo dài trong những năm qua của chúng ta đã mang lại nhiều kết quả, bao gồm cả các điều kiện địa lý của Cố đô Huế.
Các đặc tính lịch sử của văn hóa hoàng gia Huế là sản phẩm của sự tích tụ của nhiều lớp của một sự hợp nhất các nền văn hóa vào trong khuôn khổ của văn hóa cung điện của nhà Minh và nhà Thanh. Những nền văn hóa này bao gồm văn hóa Champa Ấn Độ đã lan rộng khắp miền Trung và miền Nam Việt Nam, và lối sống và văn hóa bản xứ nhẹ nhàng đã thấm nhuần trong toàn bộ bán đảo Mã Lai.
Miền Bắc Việt Nam đã nhận được ảnh hưởng trực tiếp của nền văn hóa truyền thống của Trung Quốc, trong khi miền Trung/miền Nam Việt Nam phát triển một nền văn hóa của nhiều lớp bản xứ, vì vậy hai miền này hiển nhiên giữ lại các kỹ thuật và phong cách kiến trúc khác nhau. Tuy nhiên, các công trình lịch sử của Huế hiển thị cả những đặc điểm khác nhau. Ví dụ, các đặc điểm này giữ một cấu trúc mái sử dụng dầm ngang được gọi là Kèo trong không gian chính của cung điện, trong khi hiển thị kỹ thuật kiểm soát độ dốc mái của cả hai miền Bắc và miền Trung/miền Nam Việt Nam, trong đó các dụng cụ khác nhau đã được sử dụng như vẫn quy ước. Hơn nữa, các biểu hiện kiến trúc tiêu biểu được miêu tả bởi sự hài hòa lỏng lẻo và nhẹ nhàng của “toàn bộ” và “bộ phận của toàn bộ” của mỗi tòa nhà. Hay nói cách khác, quy mô của nó giảm, chuyển động êm ả vào lòng người và kết hợp hoàn toàn với vẻ đẹp của phong cảnh sông núi xung quanh. Ở đây, một không gian dịu dàng ôm lấy cảnh quan.
Việc tạo ra các nền văn hóa truyền thống này có lẽ có thế là do phần phía bắc của Việt Nam nhận được ảnh hưởng trực tiếp từ các trung tâm lịch sử của nền văn hóa thế giới (“cốt lõi”), nhưng miền Trung và miền Nam ngoại vi hơn (“phụ-lề”) đã có thể nhận được nền văn hóa tiên tiến (Trung Quốc) có chọn lọc hơn, ngay cả trong khi vẫn giữ truyền thống bản xứ của họ. Trong lĩnh vực này, tôi tin rằng Huế và Nhật Bản, mà cả hai đều phụ-lề ở châu Á, chia sẻ một sự tương đồng trong sự hình thành của văn hóa truyền thống của mình, và phục hồi Chánh Điện thông qua một dự án hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản có ý nghĩa lớn đối với lịch sử văn hóa thế giới.
Sau đây, tôi muốn đẩy mạnh việc nghiên cứu phục hồi của chúng tôi về nghi lễ và lối sống trong cung điện hoàng gia Huế, và cũng muốn đưa ra một tầm nhìn đô thị hài hòa với thiên nhiên và mang đến cho đời sống văn hóa lịch sử Huế phù hợp với thành phố di sản thế giới, với sự hợp tác từ các tổ chức khác nhau, các nhà nghiên cứu và các nhóm hành động trong việc xác định các di sản văn hóa lịch sử nói trên có thể được các công dân Huế hiếu và sử dụng như thế nào. Sự đẩy mạnh dự án phục hồi Điện Cần Chánh với sự hợp tác của Chính phủ Việt Nam, tỉnh Thừa Thiên Huế và Chính phủ Nhật Bản là một phần tượng trưng của sứ mệnh này.
T.N
(SDB12/03-14)
PHAN THANH HẢIDưới thời quân chủ, hầu như ở tất cả các nước phương Đông đều có tục tế giao. Tế giao tức là tổ chức nghi lễ cúng để con người có thể giao tiếp được với trời, đất và các bậc thần linh.
LÊ NGUYỄN LƯUI. QUAN NIỆM VỀ SỐNG CHẾT
HUỲNH ĐÌNH KẾT
Di tích cảnh quan Huế là một bộ phận cấu thành diện mạo văn hoá Huế. Ngày nay, di tích cảnh quan được quan niệm là loại hình văn hoá vật thể (Tangible culture) trong hàm nghĩa phân biệt với văn hoá phi vật thể (Intangible culture). Dẫu sao cũng chỉ tương đối.
LIỄU THƯỢNG VĂNCố đô Huế, một trong những trung tâm văn hoá, lịch sử của Việt Nam. Không những thế, Huế còn là một tổng thể di tích quan trọng, sánh hàng kì quan trên thế giới. Cố đô thơ mộng mang đầy tính nghệ thuật lẫn với cái nét sâu thẳm, ẩn bóng của học thuật Đông phương và truyền thống dân tộc…
NGUYỄN HÀO HẢITrong lịch sử, việc làm những đồ nghệ thuật giả chỉ bắt đầu xuất hiện ở những xã hội có đời sống kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần khá phát triển.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNChuyện xưaGiờ đây, những vị tham gia biên dịch Mục lục Châu bản Triều Nguyễn (MLCBTN) trong Uỷ ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện Đại học Huế những năm sáu mươi của thế kỷ trước, đã lần lượt quy tiên. Chỉ còn lại một người cuối cùng đang dưỡng lão trong một ngôi nhà khá yên tĩnh dưới bóng những lùm cây sớm chiều toả mát trong một xóm ven sông Cẩm Lệ, thuộc huyện Hoà Vang, ngoại ô Đà Nẵng. Đó là bác Ngô Văn Lại, năm nay ngoài tuổi bảy mươi.
NGUYỄN HỮU THÔNGCó những câu hỏi đặt ra, Huế mãi không có câu trả lời thuyết phục:* Tại sao mặt hàng lưu niệm trong thị trường du lịch, trong các lễ hội Festival là nghèo nàn đến thế! Sản phẩm thủ công Huế lác đác chen chúc khuất lấp trong lớp lớp hàng Trung Quốc và các tỉnh khác trong nước?* Tại sao trong quá trình trùng tu, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế lại phải mời thợ từ "Đàng Ngoài" trong nhiều khâu kỹ thuật từ sơn, thếp, mộc, làm ngói men, gạch bát tràng...?* Tại sao nhà phục chế Trịnh Bách lại phải sống ở Hà Nội, để gửi vào Huế những tấm long bào, long cổn, hia, mão và kể cả những phiên bản phục chế men lam thời Nguyễn?...
HOÀNG ĐẠO KÍNHVăn hoá xứ Huế là một hiện tượng: sinh sôi và thịnh vượng trong khoảng thời gian và không gian địa lý hạn hẹp. Cả hai nhân tố, vật thể lẫn phi vật thể, đều kịp đạt đến trình độ cao và thấm đậm những cái riêng, so với các thời kỳ lịch sử trước đó và so với các miền đất khác. Di sản văn hoá xứ Huế không chỉ phong phú, không chỉ đặc sắc, mà còn kiệt xuất, bởi nó sở hữu rất nhiều những cái duy nhất.
BEATRICE KALDUN (Nhân viên chương trình Văn hoá của UNESCO tại Bangkok)Xin chào quý vị đại biểu!Hôm nay, tôi xin bày tỏ sự vui mừng khi có mặt tại đây, đại diện cho Ngài Richard Engelhardt, Cố vấn Văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương tham gia cuộc Hội thảo về vấn đề bảo tồn và phát triển hội nhập của Huế, một trong những di sản quý giá nhất của Việt Nam và Thế giới.
PHAN THUẬN ANSự quan hệ công tác giữa UNESCO với Việt Nam đã bắt đầu có từ hơn 50 năm về trước. Nhưng, sự hợp tác chặt chẽ để mang lại những hiệu quả thiết thực và hữu ích cụ thể thì chỉ mới diễn ra trong vòng vài chục năm trở lại đây. Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và Bộ Văn hóa Thông tin nước chủ nhà đã đóng góp những vai trò xúc tác quan trọng trong mối quan hệ làm việc giữa tổ chức UNESCO đóng tại Paris và các quan chức Việt Nam ở những tỉnh có di sản văn hóa và di sản thiên nhiên nổi bật.
PHAN TIẾN DŨNGHuế một vùng non sông kỳ tú, với sự sáng tạo của con người đã lưu giữ trong lòng mình những tài sản vô cùng quý giá. Một trong những giá trị nổi bật mang tính toàn cầu là Quần thể Di tích Huế đã được công nhận vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới (World Heritage List) ngày 11-12-1993. Bên cạnh đó, Huế còn là hội điểm về những di sản vật thể vừa phong phú vừa đa dạng. Từ mảnh đất này đã hình thành nên những phong cách, tạo nên nhiều loại hình nghệ thuật, đã sinh thành nhiều tài năng, đã hội tụ nhiều danh nhân để góp phần nên một Huế vừa mang đặc trưng bản sắc Việt Nam, vừa có sắc thái riêng của một vùng đất Cố đô.
NGUYỄN VĂN MỄ (Trích)Huế - thành phố lịch sử, một trung tâm văn hóa du lịch, là vùng đất có bề dày văn hóa với những tầng văn hóa khác nhau: di chỉ Khảo cổ học thời Tiền, Sơ sử; các dấu tích của văn hóa Sa Huỳnh; văn hóa Chămpa; văn hóa Đại Việt... và vô cùng quan trọng là hệ thống di tích Cố đô được xây dựng dưới vương triều Nguyễn.
LƯU TRẦN TIÊUHiếm có một miền đất nào mà ở đó những giá trị văn hóa lại đậm đặc, phong phú, đa dạng và đặc sắc như ở Huế. Từ góc nhìn địa - chính trị - văn hóa, xứ Huế xưa như là một vị trí chiến lược trọng yếu, vừa là cầu nối, vùng đất mở, vừa là nơi diễn ra sự chồng lấn, dung hợp, tiếp biến các vùng văn hóa, các dòng văn hóa để tạo dựng thành một trung tâm văn hóa trên cái nền chung của văn hóa Việt Nam, lóng lánh những nét riêng đặc sắc của mình.
NGUYỄN QUỐC HÙNGNăm nay, chúng ta kỷ niệm 10 năm Quần thể Di tích Kiến trúc Huế được ghi vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới của UNESCO, 10 năm với rất nhiều thành tựu đổi thay. Nhớ lại chỉ sau 5 năm trở thành Di sản Văn hóa Thế giới, Tiến sĩ Richard Engelhardt chuyên gia về văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO đã mạnh dạn tuyên bố: “tình trạng cứu nguy khẩn cấp của khu di tích Huế đã qua đi” và “chúng ta chuyển từ giai đoạn khẩn cấp sang giai đoạn ổn định trong chiến dịch vận động bảo tồn di tích Huế”(1)
NGUYỄN KHOA ĐIỀMTrong các di sản văn hoá ở nước ta, Huế giữ một vị trí đặc biệt. Chính vì thế mà ngay sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, giữa bộn bề công việc, Đảng và Nhà nước ta vẫn dành cho di sản văn hoá Huế sự quan tâm thích đáng. Dù chưa tập hợp được hồ sơ đầy đủ, chưa có được nguồn kinh phí thoả đáng, nhưng từ năm 1979, Nhà nước ta đã có văn bản đặc cách quy định việc bảo vệ di tích thành nội Huế.
PHÙNG PHUCách đây vừa tròn 10 năm, ngày 11 tháng 12 năm 1993 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng đối với Huế và với cả nền văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam: Quần thể Di tích Cố đô Huế đã chính thức được UNESCO ghi tên vào danh mục Di sản Văn hoá Thế giới với dòng chữ “Ghi tên vào danh mục này là công nhận giá trị nổi bật toàn cầu của một tài sản văn hoá hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích của nhân loại”. Lịch sử vùng đất Phú Xuân- Huế với Di sản Văn hóa Thế giới đầu tiên của Việt Nam mở ra một trang mới, giang rộng vòng tay đón bè bạn trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu và truyền đạt kinh nghiệm trong công việc bảo tồn và phát huy giá trị.
TRƯƠNG THỊ CÚCSau Hiệp định Paris năm 1973, Thành uỷ Huế chủ trương phải xây dựng thêm các tổ chức cách mạng biến tướng để tập hợp lực lượng trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên ở nội thành; tạo cho được những hoạt động công khai, hợp pháp nhằm thu hút quần chúng ở vùng địch tạm chiếm hướng đến mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, đòi dân sinh, dân chủ, tiến tới đòi thi hành Hiệp định Paris.
TRƯƠNG THỊ CÚCCách đây gần tròn 50 năm, từ Đại hội Anh hùng Chiến sĩ Thi đua lần thứ 3 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động chiến dịch “Vì miền Nam ruột thịt”. Thực hiện chủ trương nầy, năm 1957 Bộ Văn hoá và Thư viện Quốc gia Việt Nam đã chính thức chỉ đạo 26 thư viện các tỉnh và thành phố ở miền Bắc xây dựng trong lòng mỗi thư viện một “Thư viện Kết nghĩa” vì miền Nam ruột thịt theo quan hệ kết nghĩa giữa các tỉnh, thành Bắc-Nam.
PHAN THANH HẢISông Hương là báu vật mà trời đất đã ban tặng cho Huế. Đã tự bao giờ, sông Hương đã được xem là dòng sông của thi ca, nhạc họa, của kiến trúc, nghệ thuật xứ Huế. Đã có nhà văn từng thốt lên: “Nếu một ngày nào đó sông Hương đột nhiên biến mất, thì Huế có còn là Huế nữa không?!”...
BỬU ÝMột đất nước có lịch sử lâu đời hẳn nhiên thừa hưởng di sản phong phú và đủ loại.Trước hết, vấn đề di sản không nhất thiết đi đôi với Festival. Di sản có thể nằm một cõi, mà Festival lại nằm một nơi. Cũng có thể phát huy riêng rẽ, phục vụ quần chúng khác nhau, nhưng cùng chung một trục văn hoá để cùng được bảo tồn và phát huy. Nhưng nếu di sản sánh đôi với Festival thì đó là một cuộc nên duyên như được dành sẵn.