Hai bài văn bia ca ngợi cảnh đẹp chùa Thánh Duyên núi Thuý Vân

10:14 18/08/2009
TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

Thánh Duyên tự ở núi Thúy Vân - Ảnh: thuvienhoasen.org

1.Vài nét về chùa Thánh Duyên, núi Thuý Vân và hai tấm Văn bia:

Ở đầm nước mặn Cao Đôi (đầm Cầu Hai) nổi lên một ngọn núi có hình dáng tròn trịa. Tuy không lớn lắm nhưng từ xa nhìn lại ta đã thấy ngọn núi nổi bật lên giữa miền đầm phá, tạo nên một cảnh sắc sơn thuỷ hữu tình. Ngọn núi ấy có tên là Thuý Vân thuộc địa phận hai làng Đông An và Hiền Vân, xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ Huế xuôi theo đường quốc lộ số 1 vào Nam khoảng gần 30 km ngang qua đầm Cầu Hai chúng ta có thể tới nơi. Trên núi Thuý Vân có ngôi chùa mang tên “Thánh Duyên Tự”. Ngôi chùa này không biết có từ bao giờ, chỉ biết từ mùa thu năm Nhâm Thân (1692), chúa Nguyễn Phúc Chu đã cho tu sửa. Trải qua chiến tranh và thời gian tàn phá, chùa bị hư hại. Vào năm 1825 vua Minh Mạng đi qua và quyết định trùng tu chùa. Và đến năm 1836 nhà vua lại quyết định “đại trùng kiến” toàn bộ chùa Thánh Duyên với một qui mô lớn để, trước là cầu phúc cho dân – nối chí các vị tiên đế, sau là để mừng lễ thượng thọ mẹ. Chùa này nằm ở một địa thế rất đẹp. Bởi vậy vua Thiệu Trị đã xếp ngôi chùa này vào cảnh đẹp thứ chín ở đất Thần Kinh .

Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia – một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi.

Tấm bia thứ nhất dựng trong chùa đề hai chữ “Ngự  chế”. Nội dung gồm bốn bài thơ ca ngợi cảnh đẹp chùa Thánh Duyên, gác Đại Từ, tháp Điều Ngự , núi Thuý Hoa. Xen kẽ những bài thơ là các đoạn văn chú thích cho rõ nghĩa. Theo lạc khoản đề ở cuối thì đây là bài văn bia của vua Minh Mệnh được khắc vào một ngày tốt  tháng ba năm Đinh Dậu niên hiệu Minh Mệnh thứ 18 (1837). Bia cao 1,72m,  rộng 0,84m, dày 0,25. Trán bia chạm lưỡng long triều nguyệt, riềm bia chạm hình hoa lá.

Tấm bia thứ hai có tên là “Vân Sơn thắng tích” được dựng trong nhà bia dưới chân núi Thúy Vân nằm ở bên phía tay trái trên đường vào chùa. Tấm bia này có chiều cao là 1,38m, dày 0,8m, lòng bia khắc chín dòng chữ và một dòng lạc khoản “Thiệu Trị tam niên thất nguyệt cát nhật, cung tuyên ngự chế thi nhất thủ” (cung kính khắc một bài thơ do vua làm vào ngày tốt tháng bảy nhuận năm thứ ba đời Thiệu Trị (1843). Thiệu Trị vốn rất giỏi thơ văn. Tác phẩm ”Ngư Đề Đồ Hội Thi Tập” là một trong hàng loạt tác phẩm của ông và bài ”Vân Sơn thắng tích” là một trong 20 bài thơ mang tên là “Thần Kinh nhị thập cảnh” nằm trong tác phẩm này.

2. Cảnh đẹp chùa Thánh Duyên và núi Thuý Vân hiện ra như một bức tranh tuyệt diệu qua ngôn từ ở hai tấm văn bia:

Hai tấm văn bia ở chùa Thánh Duyên và núi Thuý Vân là do hai vị vua thời Nguyễn ngự chế nên tư tưởng và tình cảm trong thơ cũng là tư tưởng tình cảm của người đứng đầu đất nước có ý thức tự hào về nền văn hiến. Trong “Đại Nam Thực Lục” vua Thiệu Trị đã từng nói: ”Nước ta vốn có tiếng là văn hiến” và “văn vật ở nước ta không kém gì  Trung Quốc”. Tự hào về những tài sản văn hoá và thiên nhiên của đất nước, vua Minh Mệnh và Thiệu Trị đã làm rất nhiều thơ. Riêng chốn kinh kỳ tình cảm của các ông được in dấu đậm nét hơn. Cảnh vật kinh đô Huế đã được hiện ra ở trong thơ các ông. Đây là nơi  “sơn kỳ thủy tú” được tô điểm bằng những kiến trúc cung đình và dân gian nên tất cả đã tạo nên một đế đô diễm lệ tuyệt vời mà không có bút nào tả xiết. Chùa Thánh Duyên, núi Thuý Vân là một trong những danh thắng được các vua thường lui tới nên nó đã trở thành “hành cung” (chỗ nghỉ ngơi khi vua ra khỏi kinh thành). Bởi vậy bài văn bia dựng ở trong chùa, vua Minh Mệnh có viết: “Thời xưa núi này chùa rất nhiều, đều do Hoàng Tổ Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng Đế xây dựng. Về sau trải qua nạn giặc Tây Sơn, nơi đây bị tàn huỷ gần hết. Năm ngoái đi kinh tới được đây, nghĩ rằng: danh sơn, thắng tích không thể để mai một mà không truyền lại”­(1). Ý đồ đó của nhà vua cộng với tâm niệm” Chỉ cốt trên phụ giúp hoàn thành thiện tâm của Hoàng Tổ, thứ đến làm đẹp lòng Thánh mẫu, cầu mong cho Thánh mẫu được hưởng thọ sống lâu, quốc gia an bình, dưới thì thần dân được khang thái, mùa màng được tốt, sông nước thuận hoà, nội tĩnh ngoại yên”. Đây chính là một thiện ý của nhà vua. Hoàn thành việc trùng kiến, vua Minh Mệnh nhân dự lễ chùa Thánh Duyên đã làm bài thơ “Thánh Duyên Tự chiêm lễ” (bát vân). Bài thơ này đã ngợi cảnh đẹp của chùa Thánh Duyên:

            “ Bối ỷ Thuý Sơn kiêu
            Diện lâm tiểu hải tân”.
                        (Thánh Duyên Tự chiêm lễ)
            (Lưng dựa núi Thuý Vân
            Mặt hướng về biển cả)

Núi Thuý Vân, chùa Thánh Duyên trong thơ của Minh Mệnh như hoà quyện làm một để tạo nên địa thế vững vàng, thoáng đạt, u tịch của một cõi thiền.

Do vậy, Vua Thiệu Trị đời sau (con trương vua Minh Mạng) cũng nói về địa thế của núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên như sau:

                        “Thuý vân sơn
                        Tủng thuý sầm khâm
                        Hư thanh phân úc
                        Ngoại lâm minh bột       
                        Nội hám hải nhi.”
                                    (Vân sơn thắng tích)

                        (Núi Thuý Vân
                        Non xanh cao ngắt       
                        Cây biếc ngát hương
                        Ngoài ngắm đại dương
                        Trong nhìn biển nhỏ)

Như vậy, núi Thuý Vân có địa thế đẹp cũng là cái đẹp của chùa Thánh Duyên. Nằm trên một quả núi nổi lên giữa đầm nước lợ Cao Đôi nên chùa Thánh Duyên đúng là một cõi thiền thoát tục bởi ngọn núi “cao ngất” và một rừng cây “ngát hương”. Trên những lối đá mòn, chim chóc hót véo von như chào đón khách vãn cảnh. Tiếng khánh chùa rung xuyên rừng rậm vang xa đến tận thinh không hoà vào tiếng đọc kinh giọng trầm bổng các vị sư sãi làm cho chốn thiền lâm đẹp tươi như tranh vẽ bởi trúc biếc, tùng già, mưa hoa, lối sỏi, khánh rung, chim hót, tiếng mõ vang...

                        “Tùng quan hoa tiếu khách,
                        Thạch kính điểu nghênh nhân.
                        Khánh vận xuyên lâm hưởng,
                        Kinh thanh nhiễu thụ tần.
                        U nham ứng thắng hoạ,
                        Diệu cảnh khả di thần.”
                                    (Thánh Duyên Tự chiêm lễ)

                        (“Cửa tùng hoa mừng khách
                        Lối đá chim đón người.
                        Khánh rung xuyên rừng rậm,
                        Tiếng kinh rộn hàng cây.
                        Núi sâu đẹp như vẽ,
                        Cảnh đẹp vui lòng người.”)

Cảnh đẹp này còn được miêu tả rõ nét hơn trong bài văn bia ”Vân Sơn thắng tích” của vua Thiệu Trị :

                        “Thuý trúc trường tùng tín thị Linh Sơn Thứu Lãnh.
                        Hoàng hoa tề thảo nghiễm nhiên Hương Quốc Kỳ Viên.
                        Thanh u chi tự tại thiên,
                        Cực lạc chi từ bi cảnh.”
                                       (Vân Sơn thắng tích)

                        (Trúc biếc tùng già khiến tin là Linh Sơn Thứu Lãnh
                        Hoa vàng cỏ mịn nghiễm nhiên là Hương Quốc Kỳ Viên.
                        Trời thanh u tự tại
                        Cảnh cực lạc từ bi.)

Những khóm trúc ven bậc lên chùa, những cây tùng già cao vút như đã có từ lâu tạo nên một cảm giác như đưa du khách đến nơi Thứu Lãnh (Thánh địa của Phật giáo nơi Phật Như Lai từng giảng kinh Pháp Hoa). Nơi đây có hoa vàng cỏ mịn và nhiều cảnh đẹp xứng đáng là một kỳ viên trên một đất nước đầy hương thơm để Phật cư ngụ. Đây chính là cảnh cực lạc của cõi từ bi. Chính cảnh đẹp đó đã làm nảy sinh cảm hứng và vua Thiệu Trị đã ca ngợi rằng:

                        “Tích thuý toàn ngoan bất kế xuân.
                        Cầu long ẩn phục liệt luân tuân.
                        Huệ phong chung độ u lâm hưởng.
                        Không vũ hương la pháp hải tân
                        Thụ luyến từ đàm phù bích lạc.
                        Kính nha tăng lũ tạp hồng trần
                        Thánh Duyên phổ tế hàm qui thiện.
                        Phật tích tăng quang tư hữu nhân”
                                                            (Vân Sơn thắng tích)

                        (Vòi vọi non xanh ước mấy xuân,
                        Rắn rồng nương náu chốn hang thần.
                        Gió thiền chuông điểm rừng sâu dội.
                        Cõi diệu đưa hương biển pháp nhuần.
                        Cây vướng mây lành lên thượng giới,
                        Đường xuyên guốc sãi lấm hồng trần
                        Duyên vua rưới khắp đời qui thiện
                        Cảnh đẹp huy hoàng hẳn có nhân.)(2)

Cảnh đẹp ở núi Thuý Vân không những do thiên nhiên tạo nên mà còn do bàn tay con người xây đắp. Bởi vậy trong tấm văn bia dựng trong chùa vua Minh Mệnh đã chú thích dưới bài thơ “Thánh Duyên tự chiêm lễ“ rằng: “trên lưng chừng núi cho xây một cái gác tên là “Điều Ngự Tháp”. Chính Đại Từ Các và Điều Ngự Tháp đã tô điểm làm cho núi Thúy Vân đẹp hơn. Và chính nhờ núi Thúy Vân mà gác Đại Từ, tháp Điều Ngự càng trở nên nguy nga, hùng vĩ. Trong bài thơ “Đại Từ Các” vua Minh Mệnh đã miêu tả gác Đại Từ ở một thế đứng:

                        “Đăng lâm du bách cấp.
                        Tuấn trĩ tủng tằng tiêu
                        Nam liệt quần phong củng
                        Bắc lai đại hải triều “
                                                 (Đại Từ Các )

                        (Vượt lên cao trăm bậc
                        Núi thẳm vờn mây trời
                        Phía nam ngàn núi phục
                        Phía bắc biển rộng chầu.)

Gác Đại Từ ở một thế đứng rất cao để giao hoà với đất trời. Đây thật là cái thế “âm dương giao cảm” trong thuật phong thủy của Quản Lộ (Quản Lộ 209- 256 người Sơn Đông, sống vào thời Tam Quốc, thuở nhỏ thích thiên văn, lớn lên tinh thông kinh dịch và giỏi về bói toán, phong thuỷ. Ông có cuốn sách “Quản thị địa lí chỉ mông “nói về thuật phong thuỷ), và nó cũng thật là đăng đối bởi “Phía nam ngàn núi phục, phía bắc biển rộng chầu”. Thế đứng của Đại Từ Các còn là cái thế “tả thanh long”, “hữu bạch hổ” (theo thuyết “phương vị” trong thuật phong thuỷ ở thời Tần Hán - Ngụy Tấn bên Trung Quốc ). Nhìn như vậy thì thấy Đại Từ Các được xây theo thuật phong thuỷ, bởi đây là một môn cảnh quan văn hoá, được xây dựng trên cơ sở tư tưởng truyền thống phương Đông (Thuật phong thuỷ nhấn mạnh sự hài hoà giữa con người và thiên nhiên. Nó thực sự chi phối việc chọn địa điểm để xây dựng kinh đô, làm nhà, trổ cửa, cất mộ và nó còn liên quan đến Đạo giáo, Nho giáo và Phật giáo, bởi đó chính cách lựa chọn môi trường để phát triển và thực hiện lí tưởng sống của con người). Nhìn thế thì thấy núi Thuý Vân, chùa Thánh Duyên, gác Đại Từ là nơi làm cho con người dễ tĩnh tâm để tu hành. Nơi đây thực sự là “chân như” nhưng cũng vừa là “thắng địa”, vừa là cõi phật thanh tịnh nhưng là cảnh đẹp giúp con người trút mọi ưu phiền của đời sống thường nhật mà vui với cảnh thiên nhiên.

                        “Chân như cư thắng địa”
                                                    (Đại Từ Các)
                        (Chân như nơi thắng địa )

để:                   “Diệu cảnh khả di thần”
                                                    (Thánh Duyên Tự chiêm lễ)    
                        (Cảnh đẹp vui lòng người).

Cảnh đẹp ở đây còn được tăng thêm bởi Tháp Điều Ngự nguy nga ở tận đỉnh núi cao. Du khách muốn ngắm cảnh có thể trèo lên tháp phóng tầm mắt xa để nhìn cái mênh mông của đại dương, sự hùng vĩ đến kiêu hùng của dãy Trường Sơn ăn sát ra tận biển, rồi lại thỏa thuê ngắm nhìn hàng ngàn, hàng ngàn mẫu ruộng trải dài dưới chân núi. Đầm Cầu Hai mênh mông xanh như một tấm thạch bích khổng lồ. Đứng tại đây quan sát ta thấy núi Linh Thái đầu hướng ra phía Bắc tới gần biển. Núi Cao Đôi nằm phía Nam của Miêu Ngạn cao ngất như chạm tới trời. Bởi vậy vua Minh Mạng đã miêu tả quang cảnh ấy trong văn bia rằng:

                        “Thái đầu thốn Bắc hải
                        Đối đỉnh kình Nam thiên”
                                    (Thuý Hoa Sơn Hành Cung tức cảnh)

                        (Non Thái nuốt Bắc hải
                        Núi Đôi chạm nam thiên)

Còn khi nhà vua làm bài thơ về tháp Điều Ngự thì:

                        “Nguy nga bảo tháp cứ sơn điên
                        Thập cấp nhi đăng khởi quyện yên
                        Tứ diện hà quan lâm đại địa
                        Tam tằng cao súc lập trung thiên”
                                    (Đăng Điều Ngự tháp)

                        (Bảo tháp nguy nga tận núi cao
                        Mười bậc trèo lên há mỏi sao
                        Bốn mặt mênh mông ngàn đất rộng
                        Ba tầng chọc thẳng giữa trời cao)

Bảo tháp này có ba tầng. Tầng trên cùng thờ Thích Ca Mâu Ni. Tầng giữa thờ Nhân Gian Điều Ngự. Tầng dưới thờ Địa Phủ Điều Ngự. Trên đỉnh tháp còn dựng trục pháp luân bằng đồng. Bánh xe gắn chuông. Đến lúc gió thổi vào, bánh xe chuyển động phát ra tiếng xa gần đều nghe thấy. Bảo tháp này thật đẹp, thật nguy nga. Nó ở thế đứng vững chãi lại ở thế cao chọc trời. Ba tầng dựng lên thờ Phật để hoằng dương Phật giáo, khuyến thiện lòng người. Thật là một cõi từ bi hiếm thấy.

Có thể nói núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên trước kia là thắng cảnh và sau này mãi mãi vẫn là thắng cảnh của đất Thần Kinh. Nhà nước đang có chính sách tu bổ để thắng tích thời xưa khỏi bị mai một. Đặc biệt ở Huế nên tổ chức thành một tuyến du lịch từ thành phố xuôi theo đường quốc lộ vào Nam để đến những vùng du lịch sinh thái như Suối Voi, Bạch Mã, núi Thuý Vân, chùa Thánh Duyên. Bởi đến những nơi này con người sẽ được hưởng một không khí trong lành, được tận mắt nhìn ngắm cảnh đẹp của non sông đất nước. Đặc biệt là cảnh chùa, tháp ở núi Thuý Vân sẽ làm cho lòng người tĩnh lại bởi sự thiện tâm của đạo Phật luôn mở rộng, lòng từ bi của đức Phật thật bao la. Đến đây lòng chúng ta sẽ lắng lại và con người sống với nhau sẽ nhân ái hơn.

Huế, 9/2001
T.T.T
(185/07-04)


------------------
(1) Tất cả các đoạn trích trong bài đều do tác giả tự dịch từ nguyên bản chữ Hán.
(2) Đoạn dịch thơ này chúng tôi có sử dụng bản dịch của Trần Đình Sơn.
(3) Bài viết này có tham khảo cuốn “Thần Kinh nhị thập cảnh – Thơ vua Thiệu Trị” NXB Thuận Hoá 1997.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Mỗi khi đông về, nhiều góc phố ở cố đô thơm lừng món chè nóng hấp dẫn học trò. Mùa mưa ở Huế thường kéo dài từ tháng 7 đến tháng chạp, bắt đầu bằng những cơn dông đầu thu ồn ào đến những cơn mưa dầm dai dẳng, lạnh buốt xuyên suốt mùa đông.
     

  • Tuy chỉ là món ăn dân dã và phổ biến ở Huế, nhưng để chế biến được một tô bánh canh cá tràu ngon đúng vị… món ăn này cũng đòi hỏi người chế biến phải tỉ mẩn và khéo léo. Ở Huế, bánh canh có nhiều cách chế biến khác nhau, như bánh canh nấu tôm, chả cua, bò viên, da heo... Tuy nhiên, đặc sắc và thu hút nhất vẫn là bánh canh cá tràu (người Bắc gọi là cá quả, miền Nam gọi đó là cá lóc).

  • Huế những ngày này mưa dài lê thê. Từ sáng đến tối hầu như mưa không lúc nào ngớt. Đi kèm mưa là cái lạnh rét luồn vào da thịt, làm tím tái những khuôn mặt, bàn tay, đôi chân trần đang tất tả mưu sinh trên đường phố.

  • BẠCH LÊ QUANG

    Nghệ thuật và âm nhạc nói riêng, khi vượt qua lằn ranh của hữu hạn sẽ trở thành những sấm truyền vĩnh hằng, một thứ Kinh mà con người sẽ truyền rao trong cõi nhân sinh đầy biến động.

  • HỒ THỊ HỒNG

    Vua Thiệu Trị từng nói với bề tôi rằng: “Việc dạy học là chính sự trọng đại của triều đình”(1). Nhưng với truyền thống hiếu học của nhân dân ta, từ lâu vấn đề giáo dục đã được xã hội hóa một cách sâu rộng từ trong từng gia đình, dòng họ và toàn xã hội Việt Nam.

  • (SHO). “Đã mê ớt đỏ cay nồng
    Tìm trong vị hến một dòng Hương xanh
    Ruốc thơm, cơm nguội, rau lành
          Mời nhau buổi sáng chân thành món quê”

  • PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO

    Trong chuyến đi Huế dự lễ kỷ niệm ba mươi năm Tạp Chí Sông Hương vừa rồi, tôi được Tổng Biên Tập Hồ Đăng Thanh Ngọc ghé tai thông báo: “Chị cứ đi chơi Sông Hương và thăm quan quanh cố đô Huế những chỗ chưa biết, nhưng đừng nên khám phá hết để còn có cái thôi thúc mình lần sau vô  Huế mà khám phá tiếp  nữa. Nhưng dù đi đâu các anh chị cũng đừng quên đến thăm Gác Trịnh mới khánh thành nhé, hay lắm đấy, dù bận mấy  cũng nên tranh thủ ghé thăm Gác Trịnh dù là vài phút ”.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

    Buổi sáng, tôi ngồi trong Gác Trịnh nhìn ra ngoài cửa sổ. Bên ngoài trời đang se sắt chuẩn bị mưa, sự se sắt nằng nặng.

  • PHẠM HUY THÔNG

    Đầu năm 1986, nghĩ rằng năm nay là một năm có nhiều sự kiện trọng đại diễn ra trong nước ngoài nước, tôi e rằng kỷ niệm mùa hè 200 năm trước của Phú Xuân và của dân tộc, dù không phải là không có tầm vóc, có thể chỉ được chú ý có mức độ, - nếu có được nhắc đến.

  • LÊ HUY ĐOÀN

    Những cửa thành của Kinh thành Huế ghi dấu những sự kiện từ kinh đô thất thủ ngày (23/5 năm Ất Dậu, 1885) sau cuộc chiến không cân sức giữa phe chủ chiến của triều đình Huế với giặc Pháp rồi đến sự tàn phá của thiên tai qua trận lụt 1953 làm 4 cửa thành đổ sập, rồi lại trải mình qua chiến sự Tết Mậu Thân (1968) với bao nhiêu vết hằn của bom đạn.

  • VÕ NGỌC LAN

    Như một mặc định của thời gian khi Huế là kinh đô của cả nước và nơi đây cũng là kinh đô của những chiếc áo dài. Vì vậy con gái Huế được làm quen với tà áo dài rất sớm. Bởi khi mới sinh ra đã thấy mẹ, thấy bà, thấy những người phụ nữ chung quanh khoác trên mình chiếc áo dài.

  • LÊ PHƯƠNG LIÊN 

    …Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
    Những buổi ngày xưa vọng nói về…

                       (Đất nước - Nguyễn Đình Thi)

  • G.S. TRẦN QUỐC VƯỢNG

    Thế kỷ XVI chứng kiến sự vỡ ra của nền quân chủ quan liêu Nho giáo Việt Nam.

  • THANH TÙNG

    Tháng 10/2012, tại khách sạn Rex - thành phố Hồ Chí Minh, chiếc bánh đậu xanh Phượng hoàng vũ khổng lồ của nghệ nhân ẩm thực Tôn Nữ Thị Hà và ái nữ Phan Tôn Tịnh Hải được vinh danh Kỷ lục châu Á - do Hội Kỷ lục châu Á công nhận.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN

    Ở Huế có nhiều món ngon nổi tiếng như bún bò, cơm hến, dấm nuốt, bánh khoái, bèo, nậm, lọc… điều này đã được nói nhiều. Nhưng còn nhiều chuyện có thể bạn không để ý lắm.

  • NGUYỄN HUY KHUYẾN

    Vườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Khu vườn này đã được đi vào thơ ca của các vua nhà Nguyễn như là một đề tài không thể thiếu.

  • VÕ NGỌC LAN 

    Đã từ lâu danh xưng mai Huế như một mặc định cho loài hoa mai có năm cánh với sắc vàng rực rỡ. Loài hoa mai ấy chỉ sinh trưởng trên đất Cố đô và cũng là đặc sản của vùng sông Hương núi Ngự.

  • LÊ VĂN LÂN

    Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968 với việc chiếm giữ Huế 26 ngày đêm đã tạo nên bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, làm sụp đổ chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ - Ngụy, làm lung lay ý chí xâm lược của kẻ thù, buộc địch phải ngồi vào bàn đàm phán Paris.

  • NGUYỄN HỒNG TRÂN

    Câu chuyện này do nhà thơ Bích Hoàng (tức Hoàng Thị Bích Dư - cựu nữ sinh trườngĐồng Khánh - Huế) kể lại cho tôi nghe trực tiếp vào đầu năm 2012 tại nhà riêng của cô ở 170 phố Cầu Giấy, Hà Nội.

  • TRẦN BẠCH ĐẰNG

    Mỗi địa danh của đất nước ta chứa mãnh lực riêng rung động lòng người, từ những khía cạnh rất khác nhau. Có lẽ lịch sử và thiên nhiên vốn ghét bệnh "cào bằng", bệnh "tôn ti đẳng cấp" cho nên lưu dấu vết không theo một công thức nào cả. Quy luật khách quan ấy làm phong phú thêm đời sống nội tâm của dân tộc ta.