Hai bài thơ xướng họa - Thêm một tư liệu mới về mối tình bạn giữa Miên Thẩm và Cao Bá Quát

08:48 06/09/2012

LƯƠNG AN

Như chúng ta biết, từ lâu rồi mối tình bạn giữa Miên Thẩm và Cao Bá Quát đã được xem như một quan hệ ít có, từ tri ngộ văn chương mà vượt lên sự cách biệt của hai tầng lớp xã hội, sự rẽ đôi của hai khuynh hướng tư tưởng và hai đường đời.

Bút tích của Cao Bá Quát - Ảnh: daovien.net

Nhưng cho đến nay, các tư liệu chung quanh mối tình bạn đẹp đẽ ấy hãy còn ít ỏi, chưa cho phép hình dung hết chiều sâu của nó để từ đó làm sáng rõ thêm một số điểm trong cuộc đời và trong sáng tác của Cao Bá Quát.

Gần đây, trong khi tìm hiểu về Miên Thẩm và nhân đó đọc lại một số thơ văn của Cao, chúng tôi đã may mắn gặp hai bài thơ xem như của họ xướng họa với nhau, lúc Cao từ quê nhà được gọi vào làm việc lại tại kinh đô Phú Xuân. Bài "xướng" là của Miên Thẩm, in trong tập Ngộ ngôn 13 của bộ Thương Sơn thi tập (1) nhan đề "Diễu thu ngọa bệnh, cố nhân quá phỏng, thoại cựu", viết vào một đêm "cuối thu, khi ông bị ốm, bạn cũ đến thăm, hai người cùng ngồi nhắc lại chuyện xưa". Nguyên văn bài ấy như sau:

Cố nhân kim tịch hảo phàn tầm
Bệnh nhãn tương khan ái chuyển thâm
Phong vũ nhất tôn luân tụ tán
Giang Sơn cửu nhật bãi đăng lâm
Chi cung sấu cốt tri thùy kiện
Bạt kiếm bi ca vị nhĩ ngâm
Thế sự du du kham chỉ khẩu
Tạc lai thu khí cánh tiêu sâm

Tạm dịch:

Đêm nay bạn cũ khó tìm nhau
Mắt kém cùng nhìn, thương xiết bao
Chén rượu, gió mưa, câu tán hợp
Non sông, ngày chín, chẳng lên cao(2)
Còn thân chống gậy ai người khỏe
Vì bạn vung gươm thán khúc sầu
Việc thế mịt mờ đành dạy học(3)
Từ qua, thu lại chuyển âm u.

Bài họa lại là của Cao Bá Quát, chép trong Cao Chu Thần ngâm tập, cùng in trong "Cao Chu Thần thi tập" (4), nhan đề: "Phụng họa Thương Sơn công thu dạ ủy tặng thứ vận" (Phụng họa nguyên vận bài của ông Thương Sơn, đêm thu, làm tặng và an ủi). Dưới đây, là nguyên văn:

Giang hồ tuế nguyệt dị xâm tầm
Kinh quốc trùng lai ủy biệt thâm.
Suy mấn vãn đồ sương cộng biến
Thốn đơn vĩnh dạ nhật như lâm
Sinh nhai tự chuyết tu vi lộc
Khẩu nghiệp duy vong thí đoản ngâm
Ký hướng Thố viên bồi tả vọng
Hoàng hoa thu diểu mộ âm sâm.

Tạm dịch:

Năm tháng giang hồ dễ lặng trôi
Vào kinh an ủi được riêng vui.
Đường chiều tóc rụng màu sương nhuốm
Tấc dạ đêm dài ánh nhật soi
Kế sống vụng về đành bổng nhỏ
Nghề thơ mòn mỏi chẳng ngâm dài
Hướng niềm ngưỡng vọng về vườn Thố(5)
Đóa cúc chiều thu ảm đạm trời.

Cả hai bài thơ đầu mang theo nó một thời điểm sáng tác khá, nếu không nói là rất rõ. Điều này khiến chúng ta có thể xác định thời gian Cao Bá Quát, sau khi bị thả về làng, được triều đình gọi vào Phú Xuân làm việc lại là năm 1846, trước ngày 9 tháng 9 âm lịch, chứ không phải là năm 1847 hoặc cuối năm ấy như một số bài nghiên cứu đã viết.

Nhưng điều quan trọng hơn mà hai bài thơ đã đem đến cho chúng ta, đó là nội dung mối tình bạn, là cái chết kết dính hai tâm hồn được thử thách qua hai đoạn đời lận đận của Cao. Ở Miên Thẩm, cái chất dính ấy, qua bài "Đề Cúc Đường thi hậu" (Đề sau thơ Cúc Đường), bài đầu tiên ông viết về Cao, chỉ là một tấm lòng liên tài. Nhưng tấm lòng liên tài này đã nhanh chóng biến thành một tấm lòng yêu mến, xót thương khi không bao lâu sau, Cao bị buộc phải đi "hiệu lực" tận Giang Lưu ba(6).

Những ngày ấy, trong niềm yêu thương ấy, ông đã bao lần sa nước mắt (sừng ngựa không sinh, lệ luống rơi - Mã giác bất sinh không hữu lệ) và nhìn về phương nam ngóng đợi. Đến lúc này, khi những cơn sóng trong cuộc đời của Cao đang tạm lắng xuống, khi Cao lại đến với ông thì lòng ông bỗng dậy lên một nỗi thương yêu "sâu thẳm". Cùng nhấp chén rượu khi họp mặt, Miên Thẩm không những chia mà sống trọn những nỗi buồn đau lúc lìa tan, mưa gió ngoài trời, mưa gió đời Cao cũng là mưa gió trong lòng ông. Nhưng điều đáng nói hơn cả ở đây là, niềm yêu thương sâu thẳm ấy, lúc trực tiếp với đối tượng của nó, một con người lâu nay phải chịu bao nhiêu bất công trong cuộc sống, bỗng làm nảy sinh trong lòng Miên Thẩm một nỗi bất bình khó tả, khiến ông dù đang ốm liệt vẫn muốn vì bạn, rút gươm ra, hát một khúc buồn bã, xót thương. Một yêu thương như thế làm sao có thể đo nổi chiều sâu của nó?

Đó là phía Miên Thẩm. Còn về phía Cao Bá Quát, như các bài thơ bài văn của ông đã chứng tỏ, thái độ đối với người bạn thơ có địa vị cao quý này, trước sau vẫn là trân trọng hết mực. Cao biết rất rõ Miên Thẩm là một con người không ham mê công danh lợi lộc, gần gũi và yêu thương những người lao động và vì là một nhà thơ có thực tài nên rất quý các tài năng. Cao cũng nhận thấy tất cả tấm lòng của Miên Thẩm đối với mình: trong thi xã, Miên Thẩm xem Cao ít nhất cũng ngang với mọi người, Cao hoàn toàn mặc sức cùng "gõ bát" làm thơ (ngâm xã phong lưu đồng kích bát - bài "Chuyết Hiên phò mã trạch yến tập, tức tịch thứ vận") ; hơn thế, những ngày Cao bị tù tội, Miên Thẩm đã công khai đứng về phía ông, những ngày đi hiệu lực xa đất nước, Miên Thẩm đã hàng ngày trông ngóng ông được ân xá và trở lại. Vì vậy, Miên Thẩm trong lòng Cao là một bóng hình bè bạn, một tâm hồn tri kỷ, một Bình Nguyên Quân bao dung kẻ sĩ, một Lương Hiếu Vương tấm lòng rộng mở đón khách văn chương. Và do đó mà cũng chẳng còn gì khó hiểu, khi trong cuộc gặp mặt lần này, lòng kính trọng của Cao đã nhân lên thành một niềm ngưỡng vọng.

Mọi mối tình bạn cấu tạo nên bằng một sự thông cảm, một niềm yêu thương, một thái độ quý trọng lẫn nhau như thế, tất nhiên chỉ mỗi ngày một khăng khít, tươi đẹp hơn. Tiếc rằng chúng ta chưa phát hiện được bài thơ tiếp theo của Miên Thẩm mà Cao Bá Quát đã gọi là "bài thơ hay" (hảo thi) (7) và có thể còn một số bài khác nữa trao đổi với nhau lúc Cao từ giã Phú Xuân hay lúc làm giáo thọ Quốc Oai, để hiểu thêm mối tình bạn đó.

Bởi vì chẳng lẽ tự nhiên mà bốn năm sau, khi sắp đi Quốc Oai nhận chức vụ mới, Cao đã viết, trong lời đề cuối tập thơ "Hà Thượng" của Miên Thẩm, những câu tràn đầy cảm phục và yêu thương.

Còn bởi vì mối tình bạn ấy đã nâng tư tưởng và tình cảm mỗi người, giúp cho sáng tác của họ thêm phong phú và trong sáng, từ đó, góp thêm một nét riêng vào dòng văn học giữa thế kỷ 19.

L.A.
(SH23/01-87)


-----------------------
(1) Do gia đình ông khắc in năm 1872.
(2) Ngày chín (cửu nhật): tức 9-9 âm lịch, thường gọi trùng dương hoặc trùng cửu. Ngày xưa, ngày trùng cửu, người ta thường đi lên núi để tránh tật bệnh.
(3) Chỉ khẩu: Chúng tôi dịch là dạy học, theo chữ "Khẩu giảng chỉ hoạch" (dùng miệng mà giảng, dùng tay mà vạch dẫn) trong bài "minh ở mộ Liễu Tử Hậu" của Hàn Dũ: Hành Tương dĩ nam, vị tấn sĩ giả, giai dĩ Tử Hậu vi sư, khẩu giảng chỉ hoạch (từ Hành Tương trở về phía Nam, những người đỗ Tiến Sĩ đều coi Tử Hậu là bậc thầy, miệng giảng tay vạch).
(4) Một tài liệu chép tay do Trung tâm học liệu Bộ giáo dục chính quyền Sài Gòn chụp lại và xuất bản năm 1971. Tập tài liệu này có sai sót là đưa lẫn vào rất nhiều thơ của người khác nhưng bài "Phụng họa Thương Sơn công thu dạ ủy tặng thứ vận", xét về nội dung cũng như về văn phong đúng là một tác phẩm của Cao Bá Quát.
(5)Vườn Thố: tức là vườn Lương. Đời Hán, Lương Hiếu vương xây dựng một vườn rất rộng để cùng chơi với tân khách, phần lớn là các nhà thơ.
(6) Tức Ba-ta-vi-a, ở Indonesia bây giờ.
(7) xem Thơ chữ Hán Cao Bá Quát- Nhà xuất bản Văn Học, 1976.











 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊTác phẩm đầu tay của tôi - tập ký sự “Vì sự sống con đường” (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1968) viết về những đồng đội của tôi trong cuộc chiến đấu anh hùng bảo vệ tuyến đường 12A lên đèo Mụ Dạ, một đoạn đường trọng yếu trong hệ thống đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1965-1966, được xuất bản năm 1968, nhưng bài viết đầu tiên của tôi được in trên báo chí khi tôi vừa tròn 20 tuổi và đang học tại Hà Nội.

  • Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn. Anh sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930, quê ở xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhà thơ mất ngày 15 tháng 12 năm 1980, tại thành phố Huế.

  • LÊ VĂN DƯƠNG1. Quý II năm 2005, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh phát hành, nói đúng ra là tái bản lần thứ nhất cuốn Tản mạn nhớ và quên của Nguyên Ngọc. Cuốn sách dày 560 trang, tập hợp 15 bài viết của tác giả ở những thời điểm khác nhau nhưng đa phần là vào những năm 90 của thế kỷ XX và một vài năm mở đầu thế kỷ XXI.

  • PHAN CHÍNSau khi làm tròn vai một nhà chính trị, không giống như nhiều người khác, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rời Thủ đô Hà Nội về Huế sinh sống.

  • NGUYỄN THỊ KIM THANH(Nhân đọc Tập thơ Ngày đầu tiên của Trần Hữu Lục - NXB Hội Nhà Văn, 01-2010)

  • HOÀNG NHƯ MAI - NGUYỄN VĂN HẤN Cùng với những tập quán cổ truyền ngày Tết dân tộc, từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nhân dân ta đã có thêm một tập quán quý báu nữa: đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ.

  • NGÔ MINHTôi đọc và để ý đến thơ Đông Hà khi chị còn là sinh viên khoa văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Thế hệ này có rất nhiều nữ sinh làm thơ gây được sự chú ý của bạn đọc ở Huế và miền Trung như Lê Thị Mỹ Ý, Nguyễn Thanh Thảo, Huỳnh Diễm Diễm.v.v... Trong đó có ấn tượng đối với tôi hơn cả là thơ Đông Hà.

  • NGUYỄN ANH TUẤNKhông gian trữ tình không là một địa danh cụ thể. Mặc dù có một “thôn Vĩ” luôn hiện hữu hết sức thơ mộng trên toàn đồ trực diện thẩm mỹ của bài thơ, với những màu sắc, hình ảnh, đường nét:…

  • KHÁNH PHƯƠNGNhân cách văn hóa của nhà văn có thể được biểu hiện bằng những hành động, thái độ trong đời sống, nhưng quan trọng hơn, nó chi phối nhân cách sáng tạo của nhà văn.

  • HỒNG DIỆUTrương Mỹ Dung đời Đường (Trung Quốc) có một bài thơ tình yêu không đề, được nhiều nhà thơ Việt Nam chú ý.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.

  • NGUYỄN QUANG HÀTôi nhớ sau thời gian luyện tập miệt mài, chuẩn bị lên đường chi viện cho miền Nam, trong lúc đang nơm nớp đoán già đoán non, không biết mình sẽ vào Tây Nguyên hay đi Nam Bộ thì đại đội trưởng đi họp về báo tin vui rằng chúng tôi được tăng viện cho chiến trường Bác Đô.

  • LÊ HUỲNH LÂM(Đọc tập truyện ngắn “Thõng tay vào chợ” của Bạch Lê Quang, NXB Thuận Hóa, 11/2009)

  • LÊ VŨ(Đọc tập thơ Nháp của Ngọc Tuyết - NXB Thanh niên 2009)

  • NGÔ MINHÐọc lại Chiếu Dời đô, tôi bỗng giật mình trước sự vĩ đại của một quyết sách. Từng câu từng chữ trong áng văn chương bất hủ này đều thể hiện thái độ vừa quyết đoán dứt khoát với một lý lẽ vững chắc, vừa là một lời kêu gọi sự đồng thuận của triều thần với lời lẽ rất khoan hòa, mềm mỏng.

  • LÊ HUỲNH LÂMThơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.

  • KHÁNH PHƯƠNGNgay từ thuở cùng Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương viết tuyên ngôn Tượng trưng, Trần Dần đã mặc nhiên khảng khái công bố quan niệm, thơ bỏ qua những biểu hiện đơn nghĩa của sự vật, sự kiện, đời sống, mà muốn dung hợp tất cả biểu hiện hiện thực trong cõi tương hợp của cảm giác, biến nó thành không gian rộng lớn tiếp biến kỳ ảo của những biểu tượng tiềm thức. Như vậy cũng có nghĩa, nhà thơ không được quyền sao chép ngay cả những cảm xúc dễ dãi của bản thân.

  • NGUYỄN CƯƠNGSư Bà Thích Nữ Diệu Không (tục danh Hồ Thị Hạnh) sinh năm 1905 viên tịch năm 1997 hưởng thọ 93 tuổi. Lúc sinh thời Sư Bà trụ trì tại Chùa Hồng Ân, một ngôi chùa nữ tu nổi tiếng ở TP Huế, đã một thời là trung tâm Phật giáo ở miền Nam.

  • HỒNG NHU    (Đọc tập “Chuyện Huế” của Hồ Đăng Thanh Ngọc - NXB Thuận Hóa 2008)

  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬTĐọc xong tập sách do họa sĩ Phan Ngọc Minh đưa mượn vào đầu tháng 6.2009(*), chợt nghĩ: Hẳn, đã và sẽ còn có nhiều bài viết về tác phẩm này.